Những câu hỏi liên quan
H24
Xem chi tiết
HU
4 tháng 1 2018 lúc 16:46

^ ^ Hông rảnh bạn ha! ^ ^

Bình luận (0)
XD
4 tháng 1 2018 lúc 16:47

Mỗi khi mùa hè đến, em lại thấy những cơn mưa rào bất chợt, dội xuống xối xả, trắng phau cả một vùng trời. Mưa rào hay còn gọi là mưa dông với diễn biến nhanh và mạnh. Nó luôn mang đến cảm giác thoải mái cho con người và thiên nhiên.

Khi bắt đầu có cơn mưa rào, bầu trời đen xám xịt, dặc quánh lại. Những đám mây đen kéo nhau ùn ùn bay đến nơi xa, che khuất đi ánh mắt trời chói chang. Nhìn bầu trời như đang giận giữ và chuẩn bị trút cơn giận xuống mắt đất cọc cằn lâu lắm không có nước tưới.

Trên những tán cây cao, cành lung lay, ngả nghiêng như sắp gãy vì cơn gió từ đâu mạnh mẽ thổi thốc về. Gió làm rơi rụng những chiếc lá ở trên cây phủ đầy gốc. Khung cảnh trước lúc trời mưa khiến con người phát sợ, chỉ có một màu xám xịt bao phủ.                           Khi mây che kín bầu trời, bắt đầu có những giọt nước rơi xuống, từng hạt to và tròn lăn xuống mặt đất. Mưa, bắt đầu trời đổ cơn mưa rào. Mưa rất to, rơi lộp độp trên mái hiên, rồi đọng lại giữa sân. Mưa như xối xả. Mưa khiến cho cây cối trong vườn như được tắm táp một trận no nê và thoải mái nhất. Con đường đầy bụi bám giờ đây được cơn mưa dội xuống cũng thật sạch sẽ biết bao.                    Mưa rào rơi vội vã khiến cho lũ gà con chiêm chiếp, nhao nhác tìm mẹ trong mưa. Cánh đồng ruộng cũng ngập nước trắng phau. Mưa luôn làm cho mọi thứ trở nên sạch sẽ nhất.                                                                                                                                                  Mỗi lần trời mưa, mẹ em thường lậy chậu, xong nồi để hứng nước mưa. Vì mẹ bảo nước mưa rất sạch và lúc nấu nước pha chè thì ngọt và ngon. Lũ trẻ con xóm em mỗi lần có cơn mưa rào thì thường rủ nhau đi tắm mưa, đứa nào cũng hớn hở chờ đợi khoảnh khắc đón nhận mưa rào rơi trên mái hiên nhà.

Những giậu mồng tơi ởi ven đường được cơn mưa rào tắm tắp khiến chúng trở nên có sức sống và tràn đầy màu sắc xanh tươi hơn. Lúc trời đổ cơn mưa to, là lúc mẹ em phải hứng nước ở chuồng heo, chuồng bò, tránh nước chảy tràn vào đây khiến cho mấy con vật thất khó chịu.

Sau cơn mưa rào, bầu trời dường như sáng hẳn lên, mọi thứ đều như được gột rửa đi bụi bặm và đất bẩn. Không gian thoáng đãng, cảnh vật cũng trở nên tươi mới và con người rất thoải mái tinh thần.

Cơn mưa rào luôn là cơn mưa mà em dợi chờ, để được thoải mái tắm mưa, thoải mái xòa tay hứng những giọt mưa tròn trĩnh.

Bình luận (0)
ND
4 tháng 1 2018 lúc 16:54

thì khi nào trời mưa ,xách bút và vở ra mà tả 

Bình luận (0)
DH
Xem chi tiết
TH
Xem chi tiết
DL
23 tháng 12 2021 lúc 14:49

rồi kêu làm cái gì với cái đề v:<

Bình luận (1)
DL
24 tháng 12 2021 lúc 10:45

" Bạn đến chơi nhà" của nhà thơ Nguyễn Khuyến là bài thơ mang đến một tính huống dở khóc dở cười nhưng lại chứa đựng một ý nghĩa vô cùng sâu xa, được tác giả sáng tác chỉ với 8 câu thơ với lời thơ đơn giản, mộc mạc nhưng lại rất tinh tế. Nói về một tình bạn đẹp giữa ông và người bạn thân tên Dương Khuê. Bài thơ như một câu chuyện tự bộc bạch hết nỗi niềm và tình cảm dành cho tình bạn tri kỷ. Với câu thơ đầu tiên, tác giả như vỡ oà những cảm xúc vui mừng rỡ sau thời gian dài mới được gặp lại bạn thân:

" Đã bấy lâu nay Bác đến nhà"

Tác giả sử dụng cụm từ “đã bấy lâu nay” ngụ ý rằng đã từ rất lâu rồi tôi và bạn mới được gặp lại nhau, đồng thời thể hiện một tình cảm dạt dào, tha thiết dành cho người bạn xa cách thời gian dài.Cho ta thấy tác giả rất vui mừng khi mình sống ẩn dật nhưng vẫn có bạn đến thăm (tình bạn giàu tinh thần đẹp đẽ). Và bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng cách xưng hô qua danh từ “bác” thể hiện một sự thân thiết, ân cần và gần gũi. Ngỡ như tình bạn đẹp ấy sẽ được tiếp đón bằng những món ăn ngon. Vậy mà, một tình huống dở khóc dở cười xuất hiện:

" Trẻ thời đi vắng chợ thời xa"

Bạn đến chơi tôi rất muốn tiếp đãi bạn bằng những món ăn cao sang thế nhưng trẻ con thì không có để sai khiến, chợ thì ở quá xa, tuổi tôi đã lớn cũng chẳng thể đi đâu xa được. Lúc này , tác giả nảy ra sáng kiến cơm nhà lá vườn của tác giả cứu vớt được tình huống lúc bấy giờ, thế nhưng:

"Ao sâu nước cả khôn chài 

 Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà"

Những món ăn ở vườn nhà cũng chẳng khá hơn khi muốn đãi bạn món cá thì ao lại quá sâu không bắt được, có gà nhưng “vườn rộng, rào thì thưa” không dễ để bắt gà. Vậy nhà thơ sẽ dùng cái gì để tiếp đón bạn quý đây?

" Cải chửa ra cây, cà mới nụ

 Bầu vừa rụng rốn, mướp đươm hoa"

Thôi thì đành tiếp bạn những món rau dân giã, thế nhưng ra đến vườn thì cải thì chưa ra cây, cà thì mới chớm nụ, bầu và mướp thì chưa thành quả. Tình huống dưỡng như đã trở nên khó xử hơn.

Thế là chỉ còn lựa chọn cuối cùng:

“Đầu trò tiếp khách, trầu không có”

Vì không có những món ăn dù dân giã hay cao sang để tiếp đãi bạn, chỉ có sự chân thành, vui vẻ qua những câu chuyện tâm tư. Thoạt mới nhìn vào bài thơ cứ ngỡ tác giả đang than vãn với người bạn của mình về sự nghèo khổ, khốn khó, thế nhưng ý nghĩa sâu xa có ai biết. Tác giả sử dụng phép lặp “không” như muốn khẳng định về tình bạn gắn bó keo sơn, chẳng vì vật chất mới chơi cùng với nhau. Tình bạn tri kỷ chỉ cần nhìn thấy nhau hạnh phúc, khỏe mạnh là đủ vui rồi, cũng đủ để trường tồn mãi với thời gian.

Câu thơ cuối như lời giãi bày:

“Bác đến chơi đây ta với ta”

Danh từ “Bác” một lần nữa lại xuất hiện như một sự trân trọng, yêu thương. Đồng thời thể hiện sự biết ơn đối với người bạn thân đã lặn lội đường xá xa xôi đến chơi với tác giả. Cụm từ “ta với ta” ám chỉ tôi với bạn. Đến đây cả hai như cùng chung một nỗi niềm, một sự cảm thông, trân quý lẫn nhau. Chẳng cần mâm đầy món cao sang, chỉ cần tôi và bác được gặp nhau cũng đủ thân tình. Chắc chắn đây là một tình bạn đáng để học hỏi, tri kỷ và đáng quý. Một tình bạn chân thành, không vụ lợi. Câu thơ cuối như làm sáng cả bài thơ, thật ấm áp làm sao.Bài thơ khép lại mang một ý nghĩa rằng tình bạn chỉ đơn giản xuất phát từ trái tim, sự chân thành, không vụ lợi, phi vật chất đó mới chính là tình bạn đẹp. Tác giả sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với luật lệ nghiêm ngặt nhưng vẫn toát lên sự dí dỏm, vui tươi, lạc quan trong từng câu thơ. Cùng với tác sử dụng nghệ thuật phép lặp “không” nhằm khẳng định một tình bạn keo sơn, bền chặt chẳng cần mâm cao cỗ đầy nhưng cả hai vẫn vui vẻ trò chuyện, tương thông lẫn nhau. Bài thơ như muốn truyền tải một ý nghĩa cao đẹp về tình bạn đích thực, em thấy rất nghưỡng mộ tình bạn này bởi thời xưa mấy người có được tình bạn cao đẹp này. Mong rằng qua bài thơ này, chúng ta học được thế nào là tình bạn đẹp, học tập theo tác giả để có 1 tình bạn như vậy, không lừa dối, không khinh thường cũng không quan tâm tiền tài vật chất.

Bình luận (0)
KT
Xem chi tiết
DA
Xem chi tiết
TL
5 tháng 2 2021 lúc 21:35

“Chiếc buồm giương to như mảnh hồn làng

 

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.

 

Quê hương - Tế Hanh.

 

Hai câu thơ trên đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp: cánh buồm trắng no căng gió đưa con thuyền vượt lên phía trước. Tế Hanh đã có một so sánh rất lạ: "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. Phép so sánh thường lấy đối tượng trừu tượng so sánh với đối tượng cụ thể để người đọc, người nghe hình dung rõ về đối tượng trừu tượng đó. Trong phép so sánh của Tế Hanh, nhà thơ lại lấy một hình ảnh cụ thể “cánh buồm” để so sánh với một hình ảnh trừu tượng” mảnh hồn làng”. Viết như vậy thật độc đáo! "Mảnh hồn làng” gợi đến truyền thống chăm chỉ, cần cù và bao đức tính quí báu của người dân vùng biển. So sánh “cánh buồm ” với “mảnh hồn làng” khiến hình ảnh cánh buồm trở nên thiêng liêng, xúc động biết bao. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”. Động từ “rướn “ rất mạnh mẽ và hình ảnh "rướn thân trắng” cũng vô cùng gợi cảm, nó gợi đến sự trong sáng, vẻ thuần khiết của “cánh buồm” và cũng là của “mảnh hồn làng”. Không chỉ vậy, cánh buồm “rướn thân trắng” để “bao la thấu góp gió” của đại đương và biển cả còn thể hiện khao khát chinh phục tự nhiên và vũ trụ của con người. Qua hình ảnh cánh buồm tuyệt đẹp, Tế Hanh đã thể hiện tâm hồn khoáng đạt của người dân làng chài “quê hương”.

Bình luận (0)
NP
Xem chi tiết
MN
30 tháng 12 2020 lúc 16:16

Tham khảo:

Nguyễn Bính (1918 -1966) sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nghèo ở Nam Định. Nguyễn Bính bắt đầu làm thơ từ năm mười ba tuổi và để lại cho đời một sự nghiệp thơ với nhiều tác phẩm hay, nhất là về tình yêu, mùa xuân và hồn quê. Hoài Thanh đã nhận xét rằng: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tỉnh tình đơn giản của dân quê là những tỉnh tình căn bản của ta. Bài thơ “Chân quê” là một “tuyên ngôn thơ” của Nguyễn Bính chống lại xu hướng thơ hoài cổ, bảo thủ hay chạy theo những lối mơi lòe loẹt.

Thơ chính là ước nguyện, là khát vọng của con người Nguyễn Bính. Giữa lúc biết bao nhà Thơ mới đi tìm thi hứng ở động tiên, trường tình… thì Nguyễn Bính lại đi theo một lối riêng, trở về với, tình quê, hồn quê của dân tộc mả vẫn tươi mới, hiện đại. “Chân quê ” hai tiếng thôi mà nói được bao điều, hai tiếng thôi mà thắt chặt bao tình. “Chân quê” gợi bao tình nghĩa và cảnh vật. “Chân quê”, hai từ ấy không bút sách nào tả hết ý nghĩa sâu xa của nó.

Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngôn ngữ nhưng có thứ ngôn ngữ nào diễn tả được hai từ “Chân quê” đầy ý nghĩa của Nguyễn Bính. “Chân quê” là chất của người dân Đất Việt, là hồn Việt Nam chân chất mộc mạc, giản dị mà thanh tao, là tình người gắn liền với làng quê yêu dấu. “Chân quê” là những thuần phong mĩ tục ý vị đầy tính nhân văn siêu việt.

“Chân quê” là một phạm trù rộng lớn về tình cảm, về cái đẹp tâm hồn, nhân cách, lối sống của con người Việt Nam. Mở đầu bài thơ là hình ảnh chờ đợi cho một cuộc gặp gỡ: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng”. Hai câu thơ đầu là nét vẻ, rất duyên và tình yêu của đôi trai thanh gái tú nơi làng quê Việt. Ở đó người đọc nhận thấy thấp thoáng một điều gì đó đã đổi mới, ẩn bên trong là tình cảm sâu sắc của chẳng trai dành cho cô gái “đợi em ở mãi”.

Và “Khăn nhung ảo lĩnh rộn ràng/ Ao cài khuy bấm em làm khổ tôi”. Có lẽ rằng em đi tỉnh về và em đã khác. Những trang phục tân thời “khăn nhung áo lĩnh ”, “áo cài khuy bấm ” được em khoác lên người ngay sau khi đi tỉnh về. Lúc này trong xã hội đang có xu hướng đổi thay nhiều trong sinh hoạt. Cuộc sống ở làng quê còn ít giao lưu, tiếp xúc với lối sống thành thị nên cũng ngỡ ngàng, xa lạ với các hiện tượng này:

“Hỡi anh áo trắng cầm ô mâyCó phải nhân tình chớ vội qua ”

Hình thức ăn mặc quen thuộc ở làng quê là giản dị và kín đáo “mớ ba mớ bảy, áo trong áo ngoài ” rồi áo cài kín cổ, khăn thắt ngang lưng. Chiếc khuy bấm tự nó cũng chẳng có tội tình gì, nhưng ở thời điểm ấy lại gây những ái ngại cho chàng trai: em làm khổ tôi” giọng thơ nghe sao mà chua chát, xót xa quá! Một sự thay đổi quá nhanh chóng, đột ngột, bất ngờ, khó mà thích nghi được.

Nhà thơ ngược dòng thời gian, hồi tưởng lại hình ảnh cô gái với những trang phục giản dị, mộc mạc, hết sức “chân quê ” và tự hỏi:

“Nào đâu cải yếm lụa sồi?Cải dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?Nào đâu cái áo tứ thân?Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?

Nguyễn Bính đã sử dụng bốn câu hỏi tu từ làm nổi bật cái khổ tâm của người trọng cuộc, các câu hỏi nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu lắng mà xót xa xoáy sâu vào lòng người đọc và vào cả chính cô gái, những nguồn cơn khó mà diễn đạt hết thành lời. Rõ ràng, thi sĩ “Chân quê” Nguyễn Bính chịu ảnh hưởng của các hình ảnh địa phương nên đã đưa chúng vào thật thân quen, thoảng mùi hương đồng cỏ nội quê nhà, đầy chất Bắc: “yếm lụa sồi”, “dây lưng đũi”, “áo tứ thân”. Chỉ riêng “cái yếm lụa sồi” đã gợi nhiều phong vị của cách ăn mặc giản dị mà thi vị của “gái quê”: “Năm thương cô yếm đeo bùa/ Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng”. Nhưng đó chỉ là hình ảnh đẹp của em trong quá khứ, giờ đây, chúng đã “thành truyện cổ tích đi vào trong tranh”, Em của quá khứ, đâu rồi? Em của hiện tại… khác rồi ư?

Tâm sự của chàng trai thực sự rất buồn. Người yêu thay đổi chỉ sau một lần lên tỉnh: nhanh chóng… bất ngờ… hẫng hụt… xót xa. Chàng không muốn làm mất lòng người yêu nhưng thực sự vô cùng cay đắng trong lòng. Người con trai hiểu rằng mình chưa có quyền gì để thay đổi mạnh mẽ người yêu. Vì thế trong ngôn ngữ đối thoại ở đây, nhân vật nam đã dùng những từ ngữ mềm mỏng như ở thế cầu mong, đề nghị, van nài “sợ mất lòng em”, “van em”, “cho vừa lòng anh”. Mong sao người yêu mãi “giữ nguyên quê mùa”, mãi mãi giữ cái nét mộc mạc, giản dị, “Chân qụê” của ngày xưa. Chỉ cần em như xưa, cần em vẫn là em, mang nét đẹp giản dị của cô gái Việt, thế đã là vừa lòng anh. Thế nhưng, “vừa lòng anh” thì lại “mất lòng em”. Oái oăm thay! Trớ trêu thày ! Thời gian, không gian, cuộc sống thay đổi thì quan niệm về cái đẹp cũng dần thay đổi ở một số người.

 

Còn đối với chàng trai: cái đẹp không ở sự hiện đại, tân thời mà chính ở những giá trị đơn giản, mộc mạc, “Chân quê” và hơn nữa là phù hợp với bản thân và mọi người: “hoa chanh nở giữa vườn chanh ” thì mớị đúng thực chất, mới là cái đẹp thực sự. Có một số ý kiến cho rằng bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính mang tính bảo thủ quá nặng, Nguyễn Bính cứ khư khư ôm lấy hoài cổ, quá khứ, không nhìn nhận vào hiện thực, tương lai, cứ cho quá khứ là nhất. Thế nhưng, nào đâu phải vậy.

 

Nguyễn Bính chỉ muốn mọi người giữ gìn, trân trọng những nét đặc trưng dân dã của làng quê và quá khứ, không thể phủ nhận, chối bỏ nó. Cái đẹp tân thời, hiện đại, kiểu cách thì không phù hợp với làng quê vất vả, nghèo khổ. Người con gái sau khi lên tỉnh một lần trong một thời gian ngắn đã thay đổi như vậy thì không biết nếu nàng ở tỉnh trong một thời gian dài thì nét “Chân quê” còn đâu? Chắc là sẽ bị lãng quên, chối bỏ. Có một câu nóị nổi tiếng của Abutalip rằng: “Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn trả bạn bằng đại bác”.

 

Bài thơ nói rõ một tâm sự, thủ thỉ nhẹ nhàng, sâu lắng, đầy sức lay động, giọng thơ trong sáng, nhẹ nhàng của một nhà thơ được xem là “lạ nhất trước 1945” cùng những câu hỏi tu từ và những từ ngữ, hình ảnh thân quen, dân dã gây cho người đọc nhiều dư vị và cảm xúc.

Bài thơ của Nguyễn Bính là một thông điệp cảnh tỉnh rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc cho những những cô gái quê đang tự đánh mất nét đẹp chân quê của mình. Bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng nhưng xót xa của chàng trai quê về sự đổi thay từ hình thức đến tâm hồn của người yêu, đó là một sự mất mát lởn: “Đời thơ thôi thế dở dang/ cố nhân ơi, bước sang ngang lỡ rồi”. Nhưng nhà thơ đã kịp để lại cho đời “Chân quê” vô cùng đắt giá, đó là bản sắc văn hóa dân tộc được chắt lọc, cô đọng “có một không hai” cho người Việt Nam. Bài thơ “Chân quê” đã được phổ nhạc thành một bài hát được rất nhiều người yêu thích; nó sẽ còn mãi, còn mãi và in một dấu ấn không nhỏ trong lòng những người yêu hồn quê Việt.

Bình luận (0)
VC
Xem chi tiết
NT
Xem chi tiết
H24
28 tháng 1 2022 lúc 10:16

-Tham khảo:

 

Tế Hanh (1921-2009), sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, là nhà thơ xuất hiện muộn trong phong trào thơ Mới với những vần thơ mang nặng nỗi buồn và lòng yêu quê hương sâu sắc trong cảnh đất nước còn nhiều biến động. Một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông trong giai đoạn này phải kể đến Quê hương, đây cũng là chủ đề lớn nhất và xuyên suốt chặng đời thơ của tác giả. Trong tác phẩm này Tế Hanh đã vẽ lại bức tranh làng chài ven biển nơi ông sinh ra với một tình yêu sâu nặng, tấm lòng gắn bó của người con miền biển, bằng những vần thơ "trong trẻo, giản dị như một dòng sông", lối viết "mộc mạc, chân thành", đưa người đọc hòa mình vào không khí thiên nhiên, cảnh sinh hoạt nhộn nhịp của làng chài một cách đầy tinh tế.

Bức tranh làng quê được mở ra bằng lời đề từ, vốn là hai câu thơ của thân phụ Tế Hanh "Chim bay dọc biển mang tin cá", mang đến một hương vị biển cả đậm đà, mở ra một không gian thoáng rộng, tựa như nhìn từ trên cao, thấy cánh chim trời, cũng thấy cả một vùng biển mênh mông sóng nước. Tiến đến gần hơn tác giả mở đầu bằng hai câu thơ như lời kể chuyện, tâm tình đầy mộc mạc của một người con xa quê rằng:

"Quê hương tôi vốn làm nghề chài lưới
Câu thơ gợi ra khung cảnh một làng chài nhỏ ven biển, đồng thời cũng phác thảo ra dáng hình của quê hương trong lòng độc giả. Đó là một ngôi làng nằm trong cù lao, nổi lên giữa mênh mông sóng nước, khoảng cách với biển được khắc họa bằng phương tiện đo lường đầy thú vị "cách biển nửa ngày sông", một cách nói đậm chất người vùng sông nước, mộc mạc, tự nhiên.

Bức tranh làng chài không chỉ xuất hiện một cách tĩnh lặng trong trí nhớ của tác giả mà nó còn trở nên sống động với công việc lao động trên biển. Bằng cái nhìn đầy yêu thương, gắn bó, sự tinh tế của mình Tế Hanh đã diễn tả lại một cách sinh động, khí thế, đầy thẩm mỹ cái khung cảnh lao động vốn bình thường của người dân làng chài. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong những câu thơ:

"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Trong chuyến ra khơi, chào đón người dân chài ấy là một bầu không khí vô cùng tươi đẹp, tràn đầy sức sống "trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng", bằng những nét vẽ gợi nhẹ nhàng, Tế Hanh đã mở ra một khung cảnh thiên nhiên thoáng, rộng, hội tụ đủ những điều kiện thuận lợi nhất để ra khơi, khi mà trời trong, nắng đẹp, gió vừa đủ để dong buồm. Có thể nói rằng đó là một điều rất đáng quý đối với những con người ngày ngày lênh đênh trên biển cả tìm kế sinh nhai. Bên cạnh đó hình ảnh con người cũng hiện lên với vẻ đẹp chất phác, khỏe mạnh, tràn đầy sức sống trong câu thơ "Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá". Trên thực tế rằng hình ảnh người ngư dân luôn gắn liền với màu da ngăm đen, khuôn mặt khắc khổ vì nắng gió, thế nhưng khi bước vào thơ Tế Hanh, bằng ánh mắt đầy yêu thương, tâm hồn lãng mạn, tinh tế, tác giả đã mang đến cho họ một dáng vẻ khác, khỏe khoắn, tràn đầy nhựa sống.

Tuy nhiên bức tranh lao động của làng chài không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn được thể hiện một cách ấn tượng trong hai câu thơ tiếp:

"Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Câu thơ gợi ra khí thế lao động mạnh mẽ, hăng say, hào hùng của người dân làng chài. Có thể nói rằng "chiếc thuyền" ở đây chính là hình ảnh ẩn dụ cho cả một tập thể con người đang ra khơi, với tinh thần lao động không mệt mỏi, nỗ lực hết sức lèo lái để con thuyền vươn xa hơn, đến được những vùng biển giàu tôm cá. Sự khỏe khoắn, nhanh nhạy trong lao động của ngư dân được bộc lộ bằng thủ pháp so sánh "hăng như con tuấn mã", một hình ảnh so sánh rất đặc biệt lấy thuyền để so sánh với "tuấn mã", mang đến cảm giác cuộc ra khơi tựa như một cuộc hành quân đánh trận đầy lãng mạn, hào hùng. Các động từ mạnh "hăng", "phăng" càng gợi ra khí khí thế hùng tráng, mạnh mẽ của người ngư dân trong công cuộc lao động, sẵn sàng đương đầu với tất cả mọi khó khăn thử thách ngoài khơi xa.

"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Tế Hanh đã mang đến cho độc giả một hình ảnh so sánh đầy trừu tượng, lấy cái hữu hình "cánh buồm" so sánh với cái vô hình "mảnh hồn làng", tuy nhiên đây lại là nét đặc biệt trong thơ của Tế Hanh, nét lãng mạn, tinh tế ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Cánh buồm chính là đại diện cho cho những người ngư dân, cũng là đại diện cho cả một làng chài ven biển, buồm theo ngư dân đi đánh cá, cũng mang theo cả nỗi nhớ mong, sự ủng hộ, niềm tin của những người ở lại. Hơn thế nữa hình tượng cánh buồm không chỉ là một thực thể tĩnh lặng mà dường như nó cũng đang cố gắng góp công, góp sức "rướn thân trắng bao la thâu góp gió" để đưa thuyền được đi xa hơn, tìm đến những vùng biển giàu có sản vật. Điều đó thể hiện sự gắn kết, hòa quyện giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên trong công cuộc lao động, dường như ai cũng dùng hết khả năng của mình để cùng tạo nên sức mạnh tập thể, cùng đạt được những thành quả tốt đẹp nhất.

Bên cạnh cảnh ra khơi hào hùng, tràn đầy sức sống thì cảnh làng chài ven biển khi đón ghe về cũng mang những vẻ đẹp chân thực và sinh động dưới cái nhìn đầy tinh tế, yêu thương của Tế Hanh.

"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Sau một đêm dài buôn ba trên biển cả, những chiếc ghe chở đầy ngư dân và tôm cá cuối cùng cũng trở về trong buổi sớm bình minh. Khác với khung cảnh ra khơi tràn đầy khí thế, thì lúc đón ghe về làng chài lại mang vẻ ồn ào, náo nhiệt, người người nhà nhà tấp nập trên bến đỗ, chờ mang xuống những thùng cá, thùng tôm tươi rói để kịp buổi chợ sớm. Đặc biệt ấn tượng với hình ảnh những người ngư dân sau một đêm dài thức trắng thu lưới, họ trở về cùng với làn da ngăm rám nắng đầy khỏe mạnh, nhưng khác biệt ở chỗ "Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Đây cũng là một ý thơ rất trừu tượng của Tế Hanh nhưng lại bao trùm được hình tượng, cốt cách của những người dân chài đi đánh cá lênh đênh giữa biển khơi. Những con người mà thân hình đã thấm đượm mùi muối, mùi gió tại khơi xa, trở thành một dấu ấn, một đặc điểm riêng biệt chỉ dân làng chài mới có. Và hơn hết là người ta cảm nhận được sâu trong đó là sự mệt mỏi ẩn sâu trong những cơ thể cường tráng thông qua hai từ "nồng thở". Tuy nhiên, khi vào thơ Tế Hanh sự đuối sức, rệu rã ấy lại được mô tả hết sức tinh tế và vẫn mang những vẻ lãng mạn hiếm có. Không chỉ chú ý đến con người, sự "tinh" của tác giả còn bộc lộ thông qua cách mà tác giả quan sát sự vật ở câu "Chiếc thuyền im trên bến mỏi trở về nằm/Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ". Đối với Tế Hanh con thuyền không đơn giản chỉ là một vật vô tri, vô giác mà dường như nó cũng có xúc cảm, cũng biết mệt mỏi sau những chuyến khơi xa, nằm lặng im trên bến đỗ lắng nghe "chất muối thấm dần trong thớ vỏ", nghĩ về những chuyến khơi xa, về những vùng biển giàu tôm cá, về những kỷ niệm xa xăm.

Tác giả nói về thuyền mà cũng là nói về chính những con người làm nghề chài lưới, cả cuộc đời họ có đến hàng ngàn hàng vạn chuyến khơi xa, mỗi một chuyến đi là một lần kỉ niệm khó quên, biển cả là người mẹ tuyệt vời nuôi lớn người ngư dân bằng nguồn hải sản dồi dào, luôn che chở ôm ấp những đứa con của mình bằng tình cảm dịu dàng nhất. Chính vì thế cả thuyền, cả dân làng chài luôn mang trong mình tấm lòng sâu nặng, mang trong mình chất muối mặn, tựa như một sợi dây liên kết vô hình, không thể nào đứt đoạn.

Bức tranh làng quê vùng biển đã khép lại bằng những lời tình tự:

"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Đó là những hình ảnh, những kỉ niệm đẹp đẽ in sâu trong ký ức của Tế Hanh mà dù đi đâu về đâu tác giả cũng không thôi niềm nhớ mong da diết, thể hiện sâu tình yêu quê hương sâu sắc, cùng với nỗi buồn của một người con xa xứ, luôn mong nhớ về quê nhà bằng một tình cảm chân thành nhất. Thế nên dù chỉ là trong ký ức, bức tranh làng quê vùng ven biển Quảng Ngãi vẫn hiện lên thật chân thật, lãng mạn đầy chất thơ.

Quê hương là một đề tài phổ biến trong thi ca Việt Nam xưa và nay, nhưng có lẽ viết về bức tranh quê miền biển thì Quê hương của Tế Hanh là một trong những bài xuất sắc mang nhiều nét thơ tinh tế, ý vị nhất. Bức tranh quê hiện lên không chỉ là một cảnh thiên nhiên im lìm tươi đẹp và nó còn là bức tranh con người trong lao động, sự đoàn kết gắn bó, mối quan hệ thân thiết, sâu nặng giữa con người với thiên nhiên, hòa vào đó là tình yêu quê hương, nỗi nhớ tha thiết của tác giả. Tất cả đã tạo nên một bức tranh làng quê đẹp và giàu xúc cảm.

Bình luận (0)
H24
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết