Những câu hỏi liên quan
HT
Xem chi tiết
TD
Xem chi tiết
HS
28 tháng 8 2016 lúc 9:17

Đền Gióng còn gọi là đền Sóc thờ Thánh Gióng, tức Phù Đổng Thiên Vương được dựng trên núi Vệ Linh, Sóc Sơn, xưa thuộc địa phận hương Bình Lỗ, nay thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn – ngoại thành Hà Nội. Phía bắc đền Gióng là các xã Nam Sơn, Hồng Kỳ. Phía nam là xã Tiên Dược và huyện lỵ Sóc Sơn. Phía tây có sân bay quốc tế Nội Bài. Phía đông giáp xã Tân Minh và quốc lộ số 3.

Tục truyền núi Sóc Sơn là cái rốn tích tụ lại mọi linh khí của hệ thống núi Tam Đảo. Hệ Tam Đảo có khoảng 99 ngọn núi, xếp thành 3 đỉnh lớn nổi lên như 3 hòn đảo nên được gọi là núi Tam Đảo. Đỉnh giữa của núi Tam Đảo là đỉnh Thạch Bàn cao 1388 m, bên trên có tảng đá Chợ Tiên, bên dưới có các thác chảy thành Thác Bạc quanh co. Còn hai đỉnh nữa là đỉnh Phù Nghĩa và đỉnh Thiên Thị cũng đều cao xấp xỉ 1400 m. Núi Tam đảo có chỗ cao tận mây trời, rồi chạy dài như bức tường thành theo hướng tây bắc – đông nam, đến cuối dãy thì hạ thấp xuống còn khoảng 600 m chỗ Đèo Nhe và hạ thấp 300 m chỗ Kẽm Dõm rồi lặn dần và hoà vào đồng bằng vùng huyện Sóc Sơn.

 

 Căn cứ vào tấm bia đá ghi sự tích ở đền thì sau khi đánh thắng giặc Ân, vua Hùng sai dựng đền thờ để ghi nhớ công ơn của Thánh Gióng. Vua phong sắc ghi hiệu thần là Đổng Thiên Vương. Ngôi đền được dựng vào nơi có vết chân ngựa sắt, tức là ngôi đền Thượng ngày nay. Cũng theo văn bia, Đền Thượng là ngôi đền thờ Thánh Gióng đầu tiên, dựng trên ngọn núi Ninh Sóc thuộc sơn phận làng Vệ Linh. Tiếp đó dân lại dựng thêm ngôi đền nữa gọi là đền Mã, đó là nơi xưa có cây đa tục truyền Thánh Gióng đã cởi áo sắt khoác vào đó. Ngôi đền này đến nay đã bị giặc phá mất tích.

 

Đến thế kỷ 10 có vị cao tăng là Ngô Chân Lưu được nhân dân cả nước biết tiếng, lại được vua Lê Đại Hành coi như tâm phúc. Sư quê ở làng Cát Lị, quận Thường Lạc, tức làng Hương Gia, thuộc tổng Ninh Bắc, huyện Kim Anh thời Nguyễn. Sư hành đạo ở chùa Khai Quốc, mỗi lần về quê Cát Lị thường sang làng Vệ Linh thăm bạn, ngoạn cảnh muốn dựng am thờ Phật trên núi Sóc. Theo ý sư, dân làng đã tạc tượng thần, sửa sang lại ngôi đền chính là đền Thượng. Bên cạnh đền lại dựng chùa Đại Bi và am cho Khuông Việt trụ trì. Có lẽ đây là lần trùng tu đầu tiên ngôi đền Thượng thờ Thánh Gióng. Đến năm Canh Thìn (980) trong cuộc kháng chiến chống Tống, để cô kết thêm lòng dân vua Lê Đại Hành đã sai Khuông Việt thiền sư tới núi Vệ Linh cầu đảo Thánh Gióng giúp vua đánh giặc. Sau khi thắng trận trở về vua Lê có ghé thăm dân làng, đổi tên làng Vệ Linh làm hương Bình Lỗ, tế tạ thần và phong thêm hiệu thần là Sóc Sơn Đổng Thiên Vương, Đà Giang hiển thánh, phù thánh giá đại vương, thượng đẳng sơn thần. (Nghĩa là: Ông Đổng Thiên Vương là thần thiêng ở núi Sóc, đã có phép thánh hiện hình lên ở Đà Giang Dịch giúp xa giá vua Lê đốc thúc quân sĩ đánh giặc, được phong thêm tước hiệu đại vương, bậc thượng đẳng thần). Như vậy duệ hiệu Thánh Gióng đến thời Lê Đại Hành đã được gia phong thêm nhiều mỹ tự, dài tới 18 chữ. Bởi vậy trên trán pho tượng đồng phải viết tắt ba chữ Thánh – Thần – Vương cho vừa khung trán và dễ làm khuôn đúc.

Đến thời vua Lý Nhân Tông, thần lại giúp thắng Tống lần thứ hai. Vua Lý gia phong thêm 2 chữ Xung Thiên và duệ hiệu thần có đến 20 chữ.

Theo tài liệu địa phương và lời kể của các cụ già thì đền đã được trùng tu qua mười ba lần, các lần trùng tu lớn nhất, quy mô nhất, khang trang nhất là lần trùng tu năm Canh Thân (1920), năm Thân Dậu (1921) và năm 1992. Cũng từ đợt trùng tu này đền mới có thêm công trình Nhà bia cứa khối văn bia tám mặt. Nhà hành lễ và tiếp khách từ xưa đã có nhưng sơ sài thì nay đã khang trang hơn.

QUANG CẢNH ĐỀN SÓC

Trên đỉnh Sóc Sơn có vết chân to của ông Đùng, giẫm lõm đá, sâu hơn tấc, có dấu vết chân ngựa sắt của Thánh Gióng khi ngài cởi áo giáp sắt để bay lên Trời. Huyền tích, di tích vẫn còn. Đền miếu đã bao lần tu tạo, đến nay vẫn quanh năm hương khói.

Trước đền có núi Độc Tôn, núi Đại Thính, núi Hòn Ngọc và có các con suối, các cụ thường gọi là Suối Xe. Bên phải đền có núi Vây Rồng, bên trái đền có núi Đá Đen. Phía sau đền là núi Thanh Lãm.

Khu di tích đền miếu Sóc Sơn gồm có 6 công trình kiến tạo, mỗi công trình có một giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật riêng biệt. Đó là: Đền Thượng, Đền Mẫu, Đền Trình (Đền Hạ), Chùa Đại Bi, Chùa Non và khu nhà bia (nơi có lăng bia đá 8 mặt). Quần thể di tích này trải từ chân núi lên đỉnh núi Vệ Linh, nằm trong địa bàn thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Trước khi lên thăm các di tích trên ngọn núi này, du khách hãy ghé thăm các di tích nằm ở khu vực chân núi gồm : đền Trình, đền Mẫu, chùa Đại Bi, đền Thượng được bố trí rất gần nhau. Tâm điểm của tập hợp các di tích này là đền Thượng – nơi thờ Đức Thánh Gióng với quy mô đồ sộ, kiến trúc theo kiểu chuôi vồ, bên ngoài ngôi đền gồm năm gian hai trái, bên trong là hậu cung. Cách bài trí trong đền, cách sắp xếp đồ thờ, khí tự … tạo ra sự linh thiêng của nơi thờ cúng thần linh. Ngôi đền có cách bài trí sắp xếp mang đậm dấu ấn văn hóa Việt.

Di tích đền Thượng có nhiều tình tiết phức tạp và có niên đại xưa nhất. Theo tục truyền nơi đó vào buổi bình minh của lịch sử người Việt cổ đã tôn thờ một tảng đá có vết chân người cực to gọi là ông Đùng. Trong tiếng Việt cổ thì Đùng là to, là lớn. Từ hòn đá thời ban đầu xuất hiện một ngôi miếu nhỏ, rồi đến lớn. Đó là quá trình Thánh Gióng với sự tích phá giặc Ân kỳ vỹ được đồng nhất với ông Đùng có sức bạt núi, lấp sông, dẹp tắt bão, ngăn sóng biển.

Đền Hạ thờ sơn thần thổ địa (các vị thần cai quản núi Sóc). Bên phải đền lùi về phía sau, trên lưng chừng núi có tấm bia 8 mặt kể chuyện Thánh Gióng có niên đại Dương Đức thứ nhất (1672).

Đền Mẫu thờ bà mẹ sinh ra Thánh Gióng. Còn một ngôi chùa có tên là Đại Bi, vị thiền sư nổi tiếng đời Đinh – Lê là Khuông Việt đã tu tại đây. Đền Mẫu và chùa Đại Bi mới được tu sửa lại năm 1999.

Rời đền Thượng và các di tích ở phía dưới chân núi, những bậc thang phủ đầy rêu phong sẽ đưa chân du khách lên đến chùa Non Nước (tên chữ là Sóc Thiên Vương Thiền Tự) nằm ở độ cao hơn 110m so với chân núi. Ở độ cao ấy không gian của chùa trở nên khoáng đạt xua tan đi biết bao mệt mỏi sau một quãng đường leo núi. Du khách như muốn hít căng tràn lồng ngực bầu không khí trong lành, tinh khiết ấy, đắm mình vào tiếng chuông chùa ngân vang, trầm lắng và cái hư ảo, huyền thoại của không gian đầy khói sương. Ngôi chùa này còn là nơi toạ lạc của pho tượng Phật tổ Như Laibằng đồng đúc liền khối lớn nhất tại Việt Nam. Tượng nặng 30 tấn, cao 6,50m. Nếu tính cả chân bệ đá thì chiều cao lên đến hơn 8 m được khởi công từ ngày Mồng 8 tháng Tư năm Tân Tỵ (2001) để đến ngày Mồng 8 tháng Tám năm Nhâm Ngọ được rước từ cơ sở đúc đồng huyện Ý Yên – Nam Định về Sóc Sơn, an tọa tại chùa Non Nước. Tượng đúc đồng liền khối nặng hàng chục tấn đòi hỏi kỹ thuật rất cao.

Rời chùa Non Nước, du khách tiếp tục leo lên những bậc đá để lên tận đỉnh của ngọn núi Vệ Linh cao chót vót là dấu tích nơi Thánh Gióng ngồi nghỉ, cởi áo giáp sắt, ngắm nhìn non sông đất nước lần cuối rồi từ từ bay về trời. Bài ca Hội Gióng có câu:

Nhớ xưa thứ sáu đời Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Gươm thần, ngựa sắt ra oai trận liền
Giặc Ân khi đã dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ bước thần tiên lên trời.

Đứng ở đây du khách sẽ cảm nhận được hết vẻ đẹp về hình thế địa lý, vẻ đẹp thiên nhiên của ngọn núi có rất nhiều thông và cây cổ thụ trong khu vực thắng cảnh. Đây cũng chính là nơi đặt tượng đài Thánh Gióng với tư thế Thánh Gióng đang cưỡi ngựa bay về trời. Tượng cao 9,9m, rộng 13,5m trọng lượng hơn 60 tấn, được đúc bằng đồng mô tả hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt về trời từ trên đỉnh núi. Giáo hội Phật giáo Việt nam tổ chức làm lễ khánh thành tượng đài vào tháng 10 năm 2010 đúng dịp kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đứng ở đây nhìn ra xa ngút tầm mắt là một khoảng không gian bao la với bát ngát ruộng đồng, rừng cây xanh mướt. Và quan trọng hơn là du khách đã vượt qua một quãng đường leo núi thật là dài và gian nan để được hiểu thêm, cảm nhận sâu hơn về truyền thống hào hùng của dân tộc.

Trên đường xuống núi du khách có thể dừng chân ghé thăm Học viện Phật giáo Việt Nam với các khu quảng trường, tượng đài, đại giảng đường, thư viện, bảo tàng, câu lạc bộ, ký túc xá, sân vận động… Du khách có thể dừng chân vào thăm Thiền viện, xin gặp các vị Thiền sư, Hòa thượng thỉnh giáo triết lý của đạo Phật mà tỏ ngộ, giải thoát được những vướng bận của đời thường.

Trong các công trình có tại đền miếu Sóc Sơn có nhiều tài liệu ghi bằng chữ Hán quý giá. Ví dụ ở đền còn văn bia và câu đối ca ngợi thần đã giúp vua Lê Đại Hành đánh thắng giặc Tống. Hoặc ở đền Thượng có câu đối của Đại thi hào Nguyễn Du như sau:

Thiên giáng Thánh nhân bình Bắc lỗ
Địa lưu thần tích trấn Nam bang

Tạm dịch:

Trời sinh người Thánh trừ giặc Bắc
Đất giữ chuyện Thần trấn nước Nam.

Hay câu đối của Cao Bá Quát:

Phá tan đãn hiền tam tuế vãn
Đằng không do hận cửu thiên đê

Nghĩa là:

Đánh giặc lên ba hiềm đã muộn
Lên mây tầng chín giận chưa cao.

Khu di tích đền Sóc được nhà nước xếp hạng khu di tích lịch sử văn hoá vào năm 1962, được xây dựng từ thời Tiền Lê (năm 980), đến nay đã trải qua 13 lần trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên được kiểu dáng kiến trúc, quy mô và vị trí của các công trình. Trong thế kỷ XX, mặc dù đã phải trải qua hai cuộc đấu tranh chống ngoại xâm ác liệt nhưng hầu như các di tích trong khu vực không bi ảnh hưởng. Khu di tích lịch sử đền Sóc vẫn giữ được nhiều giá trị lịch sử văn hóa vô giá, góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam, được Nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa cấp quốc gia. Hiện nay do sự phân cấp quản lý, tu tạo khá cụ thể và hiệu quả, quần thể di tích thực sự là một điểm đến đầy hấp dẫn đối với du khách xa gần khi đến thăm nơi ra đời những huyền thoại tuyệt đẹp về con người Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Bình luận (2)
TD
5 tháng 9 2016 lúc 12:48

cảm ơn bạn chân thànhhiuhiu

Bình luận (0)
DN
Xem chi tiết
ND
23 tháng 5 2017 lúc 10:07

a, Văn bản “Đền Ngọc Sơn và hồn thơ Hà Nội” thuyết minh về một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội- đền Ngọc Sơn. So với các văn bản thuyết minh ở phần trên, văn bản này vừa khác ở đối tượng, vừa khác ở nội dung (tập trung vào đặc điểm kiến trúc và ngợi ca vẻ đẹp nên thơ của đền Ngọc Sơn, đồng thời bày tỏ tình yêu, niềm tự hào với di sản văn hóa)

b, Tóm tắt cảnh Tháp Bút, Đài Nghiên:

Đến thăm đền Ngọc Sơn, hình tượng kiến trúc đầu tiên ấn tượng là Tháp Bút, Đài Nghiên. Tháp Bút dựng trên núi Ngọc Bội, đỉnh tháo có ngọn bút trỏ lên trời xanh, trên mình tháp có ba chữ: “tả thanh thien” (viết lên trời xanh) đầy kiêu hãnh. Cạnh Tháp Bút là cổng dẫn tới Đài Nghiên. Gọi là “Đài Nghiên” bởi cổng mang hình tượng “cái đài” đỡ “nghiên mực” được tạc bằng đá đặt trên đầu ba chú ếch với ý “ao nghiên, ruộng chữ”. Phía sau Đài Nghiên là cầu Thê Húc nối sang Đảo Ngọc, nơi tọa lạc ngôi đền thiêng giữa rì rào sóng nước.

Bình luận (0)
NS
Xem chi tiết
NM
2 tháng 3 2021 lúc 12:18

Quê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là đường đi họcCon về rợp bướm vàng bayQuê hương – Đỗ Trung QuânVâng! Quê hương là cái nôi của cuộc đời nuôi dưỡng tâm hồn ta từ những ngày tấm bé. Quê hương mang đến dòng sữa mẹ thơm mát ngọt ngào cùng những lời ru ầu ơ trầm lắng của bà đưa ta vào giấc ngủ say.Thật tự hào khi tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Tĩnh thân thương – nơi khí hậu không kém phần khắc nghiệt nhưng lại được thiên nhiên ưu đãi ban cho nhiều cảnh đẹp.Hà Tĩnh là dải đất của Tổ quốc Việt Nam có từ thời Văn Lang – Âu Lạc. Theo thời gian, Hà Tĩnh qua nhiều tên gọi, nhiều lần gộp tỉnh rồi tách tỉnh cho đến năm 1991 Hà Tĩnh là một tỉnh độc lập và cái tên ban đầu vẫn được giữ.Là vùng đất nối tiếp Nghệ An, giáp với Quảng Bình, Hà Tĩnh có ít đồng bằng, không giống như ngoài Bắc hay trong Nam Bộ, phía Tây là dãy Trường Sơn làm chỗ dựa và phía Đông là biển cả trước mặt. Nhìn chung quê tôi là vùng đất khó khăn, khí hậu khắc nghiệt mà người xưa thường gọi là đất “ tứ đăc” – bốn bề hiểm trở. Hà Tĩnh có sông Lam nhiều thác ghềnh, trước cũng từng được xem là con sông đẹp nhất của Việt Nam.Núi sông tạo vẻ nên thơ, vừa tạo vẻ dữ dội khi mùa thác lũ. Bên cạnh núi rừng thâm u, trùng điệp hiếm những đồng bằng xanh tốt thẳng cánh cò bay như Cửu Long, Thái Bình, tạo nên cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ, rợn ngợp như luôn thử thách, rèn giũa con người. Con người tồn tại phải vừa kiên cường, vừa hào phóng, vừa chắt góp,bền bỉ…Chắc rằng trong mỗi chúng ta ai cũng đã từng được nghe câu hát: “Mời anh về Hà Tĩnh đi dọc đường cái quan Vào tận Đèo Ngang rồi vòng lên Rú Lệ, Trên đường xuôi xuống bể ghé Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà ra Hồng Lĩnh.” Đến Hà Tĩnh, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh vật thiên nhiên kì vĩ nơi đây:Chín mươi chín ngọn núi HồngChín mươi chín con chim đậu, một con vùng bay điNúi Hồng Lĩnh (tên Nôm là Ngàn Hống hay Rú Hống, cũng đọc là Hống, tên chữ là Hồng Sơn (núi Hồng) hay Hồng Lĩnh) thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Là dãy núi nổi tiếng nhất Hà Tĩnh, từng được xếp vào danh sách 21 danh thắng của nước Nam khi xưa. Cùng với sông Lam, núi Hồng Lĩnh được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ.Cùng với núi Hồng sông La, dòng Ngàn Sâu, Ngày Mọ hiền hòa, những bải biển Thiên Cầm, Thạch Hải,…góp phần tạo nên bức tranh họa đồ Hà Tĩnh.Được thiên nhiên tạo hóa ban nhiều cảnh vật, và như để tạo sự tương khắc, hài hòa, khí hậu nơi đây không mấy dễ chịu. Mùa nóng cũng nóng hơn, đồng ruộng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy. Gió khô gây thiếu nước, nạn cháy rừng vì vậy hay xảy ra. Cái gió Lào thô ráp vào những buổi trưa hè oi ả phả vào da thịt vừa nóng vừa rát là nét riêng chỉ có ở Hà Tĩnh, ở làn da bánh mật của mỗi con người. Cái cảm giác ấy cứ bám lấy khi đất trời vào hạ khiến ta chẳng thể nào quên được. Mùa mưa Hà Tĩnh dai dẳng không đều, lo chống hạn, lo chống lụt là hai tình trạng hiểm nghèo luôn đe dọa con người xứ này. Cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt góp phần tôi luyện hình thành một truyền thống, một nhân cách riêng của con người xứ Nghệ - Tĩnh.Hoàn cảnh sống tạo nên tính cách con người Hà Tĩnh, sản sinh một nền văn hóa có màu sắc riêng, đậm tính đặc trưng và giàu tính dân tộc. Tinh thần con người Hà Tĩnh làm lộ một cách rõ rệt lòng phụng thờ, sự cố gắng cùng những tính nhẫn nại kiên quyết của một dân tộc nông nghiệp chật vật tranh giành một chỗ sống dưới mặt trời:“Quê tôi sớm tinh mơ tiếng gà gọi cha vác quốc ra đồng.Ai đem nắng đong đầy tới vai, cháy những giọt mồ hôi...”Mảnh đất quê hương sinh ra nhiều anh hùng liệt nữ, hữu danh và vô danh. Tác giả “Hoan châu phong thổ kí” có viết: “ Con người Nghệ Tĩnh vẫn được tiếng là gân guốc, khô khan, con người rắn rỏi lý tính, giàu nghị lực”.Hay: “ Tính tình cứng cỏi, ham thích văn chương, ham thích lao động và dũng cảm kiên trì chống trọi đất đai cằn cỗi để kiếm sống”. – H.Le BretonCũng có những ngộ nhận rằng con người Hà Tĩnh khô khan, keo kiệt, thực dụng nhưng có lẽ, nhận xét của Gs. Đặng Thai Mai vẫn là thấu tình đạt lý nhất : “… Con người ở đây đối với tự nhiên, đối với con người, đối với cái đẹp của lý tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt nhưng lại có phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, cảm động đến thiết tha”.Hà Tĩnh là đất văn vật, nổi tiếng vì nhiều người đỗ đạt cao nhưng nổi bật hơn là cốt cách con người xứ Nghệ. Cốt cách con người Hà Tĩnh từ xưa là yêu cái đẹp, hiếu trọng đạo lý. Người ta cho con đi học để biết đạo làm người, lớn lên “ xả thân thủ nghĩa”:Con ơi mẹ dặn câu nàyChăm lo đèn sách cho tày áo cơmLàm người đói sạch rách thơmCông danh là nợ, nước non phải đền.Nhân cách xứ Nghệ không dễ trộn lẫn!Hà Tĩnh là vùng đất mà tinh thần hiếu học đã trở thành truyền thống. Nơi có những nghĩa cử khuyến học cao cả trong lịch sử. Có những xã có học điền để nuôi người nghèo học giỏi. Có những dòng họ như họ Đinh, họ Nguyễn (Hương Sơn), họ Nguyễn (Tiên Điền – Nghi Xuân), họ Phan ( Thạch Hà)… thời nào cũng có người đỗ đạt.Đây cũng là vùng đất giàu tinh thần nhân ái, tinh thần trượng nghĩa.Lòng kiên nhẫn, chí quật cường, xả thân vì nghĩa lớn đã trở thành nếp sống của mọi người. Từ xưa, các đấng tu mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian :“Làm trai cho đáng nên traiXuống đông đông tỉnh, lên đoài đoài yên”Cho đến lời thơ của Nguyễn Công Trứ:“Làm trai đứng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông”Dường như chí anh hùng đã trở thành lý tưởng xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn. Tiết tháo nhà Nho đất Hồng Lam thời nào cũng sáng! Tên tuổi của Nguyễn Du, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Thiếp,…mãi còn in những dấu son trong tâm hồn nhiều thế hệ.Nhân tài tự cổ đa hào kiệtVăn vật như kim tất đại đồngCon người Hà Tĩnh có những nét văn hóa không dễ phai nhạt theo thời gian!Căm phẫn, yêu thương đều dữ dội. Dũng cảm mà vị tha, bi tráng nhưng cũng rất trào lộng.Thời đại nào cũng sản sinh ra những con người mang dấu ấn của thời đại đó. Hà Tĩnh là mảnh đất sinh ra nhiều người con mưu trí gan góc, nhiều tài năng kiệt xuất trên đủ mọi lĩnh vực. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Hà Tĩnh vẫn anh dũng tiến lên phía trước, vượt qua mọi trở ngại của quân thù, giữ vững nền độc lập cho quê hương:Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trướcNọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên.Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi.Tinh thần tự cường ấy là nét đẹp của người dân quê tôi, của mảnh đất địa linh nhân kiệt này. Tên tuổi của các bậc anh hùng: Phan Đình Phùng, Lý Tự Trọng, 10 cô gái thanh niên xung phong,… cùng những địa danh lịch sử: núi Nài, ngã ba Đồng Lộc,… mãi sáng ngời trong trang sử hào hùng dân tộc. Tự hào quá đi thôi!Thiên nhiên nghiệt ngã, chinh chiến liên miên, con người Hà Tĩnh có một cảm quan thẩm mĩ chân thật, hài hòa trọng thực tế, hữu dụng, ít xa hoa, bay bướm.Hà Tĩnh là nơi có nhiều lễ hội, phong tục ghi lại và ngợi ca cuộc sống lao động. Nhiều đền đài, di tích gắn với những sự tích, kể lại một câu chuyện cổ, gắn bó với truyền thuyết dân gian. Truyền thống văn học dân gian, đặc biệt là hát ví hát dặm, chuyện trạng,… đã làm cho nền văn hóa Hà Tĩnh có bản sắc riêng. Đã bao đời nguồn sữa này nuôi dưỡng nhiều nhà văn, thi sĩ vào đời, trưởng thành và bất tử.Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước trên đà hội nhập, Hà Tĩnh được cả nước cũng như bạn bè quốc tế biết đến. Các thương hiệu nổi tiếng như cu đơ, nước mắm Cẩm Nhượng, bánh gai Đức Thọ, Rượu nếp Can Lộc,… cùng những làng nghề làm nón, dệt vải, mộc Thái Yên,…được nâng cao và mở rộng.Chiến tranh đã lùi xa, Hà Tĩnh ngày càng đổi mới, quá trình đô thị hóa ngày một đi lên. Hà Tĩnh của bây giờ đang ngày càng phát triển, con người Hà Tĩnh ngày càng hiện đại hơn. Thật sự bất ngờ về sự phát triển nhanh chóng của quê hương mình. Với chợ tỉnh nhộn nhịp tấp nập người bán, người mua. Với con đường cao tốc dài vun vút, ánh đèn điện sáng trưng. Với những con đường nối vào tận làng xóm......Hà Tĩnh tuy không phát triển lắm về kinh tế vật chất nhưng lại có một sức sống tinh thần mãnh liệt.Vì một ngày mai tươi sáng, quê hương chúng ta cần nhiều hơn những người con ưu tú, góp phần dựng xây mảnh đất thân thương xứng đáng như lời Gs. Nguyễn Đổng Chi đã từng nói: “Hà Tĩnh là một trong ba vùng văn hóa lớn của Việt Nam, sau Thăng Long – Hà Nội và Huế”…Thưở nhỏ, quê hương là cái gì đó cao siêu, trừu tượng và xa vời với tôi lắm. Đi học cô giáo bảo quê hương là những gì thân thiết nhất! Tôi nghĩ quê hương chính là mẹ, là bố, là ông, là bà…Lớn thêm chút nữa tôi được nghe bài hát “Mẹ em chỉ có một trên đời” thì tôi càng chắc chắn quê hương chính là mẹ vì người ta vẫn nói:“ Quê hương mỗi người chỉ một”Nhưng rồi hai tiếng “Quê hương” lớn dần trong tôi, lớn theo năm tháng, theo những bước chân trên mảnh đất quê hương và lớn dần theo cách nghĩ của một con bé không còn chỉ biết nằm mãi trong lòng mẹ. Nhưng trong hai tiếng quê hương tôi vẫn có mẹ, có ba, có cả ông bà.Quên làm sao được những kỉ niệm tuổi thơ đầm ấm bên lũy tre đầu làng? Những buổi chiều tà thả diều, đuổi bướm bắt ve hay những hôm cùng lũ trẻ chăn trâu trộm lạc bẻ ngô vùi vào đống tro đang cháy dở mà ăn ngon lành. Tất cả hiện lên thật rõ nét và sinh động như chỉ mới vừa hôm qua vậy.Quê hương là động lực thúc đẩy, giúp ta vững bước trên những chặng đường dài. Đâu đó, nơi góc khuất tâm hồn vẫn còn cất giữ bao kỉ niệm để mỗi khi lại lôi ra mà chiêm nghiệm, xoa dịu nỗi lòng sau những mệt mỏi của cuộc sống thường ngày bộn bề công việc. Và ắt hẳn như nhà thơ Đỗ Tring Quân đã từng nói: 

Quê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương nếu ai không nhớSẽ không lớn nổi thành người.

Bình luận (2)
H24
Xem chi tiết
HV
Xem chi tiết
TT
5 tháng 3 2021 lúc 22:44

“Hải Phòng có bến Sáu KhoCó sông Tam Bạc, có lò Xi măng”

Nhắc đến Hải Phòng, ta không thể không nhắc đến quần thể khu du lịch quận Đồ Sơn - miền đất của những huyền thoại, với nhiều nét đẹp phong cảnh hùng vĩ, nên thơ và đầy tráng lệ.

Đồ Sơn là một bán đảo đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển 5 km với hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m và là một quận thuộc thành phố Hải Phòng cách trung tâm thành phố 22km về phía Đông Nam, được mệnh danh là vùng đất “long chầu hổ phục”, gồm bảy phường: Bàng La, Hợp Đức, Minh Đức, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên, Vạn Hương, Vạn Sơn. Nước ở Đồ Sơn có phần đục hơn những nơi khác vì nơi đây phía Bắc và phía Nam tiếp giáp với hai con sông Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa, cộng thêm việc quai đê lấn biển ở Đảo Hòn Dấu để xây dựng khu Resort cao cấp, tuy nhiên nước nơi đây có độ mặn vừa phải, hơi muối bốc lên ít giúp da không bị cháy nắng kể cả khi tắm vào ban trưa. Đồ Sơn xưa kia còn là nơi lui tới nghỉ ngơi, hưởng thụ của vua chúa, quan lại đô hộ, là bãi tắm nổi tiếng dưới thời Nguyễn và Pháp thuộc. Không chỉ vậy Đồ Sơn còn là quê cũ của người Kinh Tam Đảo, vào giữa thế kỉ XVI-XVII, hơn trăm người dân ở Đồ Sơn đã di cư theo đường biển đến lập nghiệp trên ba hòn đảo nhỏ (được gọi chung là Tam Đảo) sau này trở thành các thôn Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm ngày nay thuộc thị xã Đông Hưng (Quảng Tây), nằm trong địa phận quản lí của địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, gần biên giới Trung - Việt, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 25 km. Tuy đã trải qua hơn 500 năm hòa nhập với nền văn hóa địa phương nhưng người Kinh Tam Đảo vẫn nói bằng tiếng Việt cổ và duy trì một số tập tính của người Việt.

Nét đẹp độc đáo của Đồ Sơn phải kể đến sự kết hợp vô cùng hài hòa giữa tiếng sóng vỗ rì rào trên biển nước mênh với bờ cát trắng và sự tĩnh lặng của những dãy núi, đồi thông, phi lao,… sừng sững, hùng vĩ, nên thơ. Bãi biển Đồ Sơn được chia làm ba khu vực gồm khu một, khu hai và khu ba được nối với nhau bằng tuyến đường nhựa trải dài. Khu một có khá nhiều quán ăn, nhà hàng, khách sạn, nằm phía đầu của Đồ Sơn, nhưng nơi đây lại rất ít người tắm vì sóng ở khu một rất lớn, địa hình nhiều bãi đá, hàu sắc nhọn, bù lại ở đây lại là địa điểm ngắm cảnh biển bình minh rất lí tưởng và còn gần với khu di tích chùa Hang Cốc Tự, giúp cho du khách có thể thăm thú cảnh chùa chiền. Khu hai là bãi tắm chính, nước ở đây tuy đục nhất trong ba khu nhưng lại thu hút nhiều du khách đến tắm và vui chơi nhất, đồng thời khu hai gần với biệt thự Bảo Đại cùng di tích Bến Nghiêng. Khu cuối cùng là khu ba với hàng trăm công trình kiến trúc đẹp mắt mà tiêu biểu là khu du lịch Hòn Dấu. Đến với khu du lịch Đảo Dáu, du khách được bơi lội trong bể nước nhân tạo lớn nhất Châu Á cùng với một số loại hình giải trí khác như: vườn thú, khu vui chơi giải trí, các khách sạn đẳng cấp 3 đến 5 sao và đặc biệt là ngọn hải đăng cổ kính hơn trăm năm tuổi hay khu “Đà Lạt thu nhỏ” mới được xây dựng thêm vào năm. Không chỉ vậy, nơi đây còn có di tích bến tàu không số, nằm ở chân đồi Nghĩa Phong, tìm hiểu về con đường Hồ Chí Minh trên biển đầy gian khổ hay sòng Bạc Do Son Casino thu hút nhiều du khách quốc tế đếm chơi, đặc biệt là du khách Trung Quốc, tuy nhiên sòng bạc không cho người dân nội địa tới chơi. Từ Đồ Sơn, du khách có thể đi du thuyền đến tham quan đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long, Tuần Châu. Ngoài ra nơi đây còn có những nét đẹp văn hóa riêng biệt, cứ đến dịp lễ Tết, du khách tứ phương cùng với người dân bản địa sẽ đến viếng thăm đền Bà Đế, cầu phúc cho mưa thuận gió hòa. Ngoài ra nơi đây còn có lễ hội Đảo Dấu thắp hương, dâng lễ để cầu cho một năm buôn bán bội thu, làm ăn thuận lơi và đặc biệt không thể không kể đến là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn diễn ra hằng năm với hai vòng: vòng sơ loại tổ chức vào mùng 8 tháng 6 âm lịch, vòng chung kết tổ chức vào 9 tháng 8 âm lịch. Những con trâu chiến thắng sẽ được thịt và bán với ý nghĩa cầu thịnh vượng, hạnh phúc.

Ngoài những nét đẹp về cảnh sắc thiên nhiên, hữu tình và nên thơ, Đồ Sơn còn được vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên của Việt Nam – đảo Hoa Phượng, lưu giữ nhiều dấu ấn của lịch sử với những biệt thự, lăng tẩm mang đậm phong cách thời Nguyễn và còn có giá trị văn hóa độc đáo. Chính vì vậy Đồ Sơn cần được duy trì và bảo tồn nét đẹp thiên nhiên để nơi đây không bị mất đi những giá trị tốt đẹp, mãi trường tồn với thời gian.

Bình luận (0)
MN
5 tháng 3 2021 lúc 23:17

Tham khảo nha em:

Chương trình du lịch đồng quê Hải Phòng đang trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù với điểm nhấn hấp dẫn là khu di tích Ðền Trạng, thờ Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585), vị Trạng nguyên lỗi lạc, mt danh nhân văn hóa lớn của đất nước. Không chỉ được biết đến là một nhà thơ, nhà triết học, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là ông Trạng của dân gian qua 300 câu sấm Trạng lưu truyền đời này sang đời khác. Không sa vào mê tín, thần bí, nhưng việc khôi phục sự hấp dẫn về văn hóa tâm linh, cắt nghĩa một cách có cơ sở triết học, suy tôn một danh nhân văn hóa dân tộc là cần thiết để hướng dẫn du khách khi đến nơi đây thành kính thắp nén hương tưởng nhớ, tìm hiểu và nghe bình sấm Trạng, lôi cuốn du khách với mục đích hướng thiện. Ðã nghe và từng đọc về Trạng Trình, chắc chắn nhiều du khách mong muốn hơn một lần được đến tận nơi để mắt thấy, tai nghe và có những giây phút thư thái: cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà để đắm mình vào không gian lịch sử mà sinh thời Trạng từng trải.Ðền Trạng được xây dựng từ khoảng năm 1586, sau đó đã được trùng tu qua các đời và đã được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia từ năm 1991. Cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm Ngày mất của Trạng Trình, UBND Thành Ph Hải Phòng đã phê duyệt kế hoạch nâng cấp quần thể di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm với các hạng mục công trình: Quán Trung Tân, mộ phần cụ Nguyễn Văn Ðịnh (thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm), khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa Song Mai, nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tu hành. Ðường đi được làm lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được quy hoạch với cảnh quan đẹp và khang trang. Việc quy hoạch, trùng tu, xây dựng khu di tích Ðền Trạng thể hiện cao nhất tính lịch sử, giá trị văn hóa, đồng thời nắm bắt được những nhu cầu hàng đầu của du khách khi về thăm Ðền Trạng. Tham quan các di tích, du khách có thể hiểu phần nào về một nhà nho ưu thời, mẫn thế, lấy chí trung là chí thiện Chí thiện tư vi cực, để cắt nghĩa về một đời tài hoa, xuất xử linh hoạt đến kỳ lạ, ở ẩn trước khi làm quan: Thánh 40 tuổi chẳng còn ngờ/ Ta tuổi 40 vẫn líu lô/ Ðảo lý nẻo xa đen như mực/ Văn chương nghề cũ xác như vờ. Và "hưu tại chức, quan tại nhà", 45 tuổi mới đi thi, làm quan vào hàng đầu triều tám năm lại rũ áo ra về ở ẩn, về mà: "Xa vua đâu phải đã nguôi lòng", vẫn "Phù trì xã tắc ngửa nghiêng, Ruổi rong há chịu ngồi yên phận già", đến "Quá bảy mươi tư mới Mừng được về nhà, thăm chốn xưa". Ðây còn là nơi đã tạo nguồn cảm hứng của 1.000 bài thơ Hán, Nôm, nói lên sự thanh bạch, trong sáng của lòng trung, nơi đã từng đào tạo hàng trăm nhân tài cho đất nước. Dân làng Trung Am đã khéo chọn hoành phi "An nam Lý Học", và đôi câu thơ treo dọc chính giữa Ðền như hai câu đối: Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Ðắc Quốc ưng tri tại đắc dân (Xưa nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết bởi được dân)... Thăm khu di tích, nghe về thơ văn, thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, du khách còn được thưởng thức cả hương vị ẩm thực của quê hương Trạng. Người dân Vĩnh Bảo khéo tay, hay làm, chế biến nhiều món ăn đồ uống địa phương đa dạng, sẽ làm hài lòng du khách. Phác họa đôi nét như vậy để thấy được sức hấp dẫn của chương trình du lịch thăm khu Ðền Trạng. Chương trình được nghiên cứu với một hàm lượng văn hóa cao, trên cơ sở tôn trọng lịch sử, lôi cuốn du khách qua những di tích, di sản còn lại, đặc biệt là qua thơ văn, bia, sấm Trạng và nội dung hướng dẫn, thuyết minh về thân thế, sự nghiệp, tài thơ văn, tài tiên tri, phong cách, lối sống, đạo đức, tấm lòng đau nước thương dân của danh nhân văn hóa Trạng Trình, đúng với "tiếng tăm lừng lẫy như sấm rền, năng lực như cột trụ chống trời, tài năng kiệt xuất, dung mạo rực rỡ như tiên nơi trần thế" của Trạng Nguyên Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khu di tích Ðền Trạng được giữ gìn, trùng tu, xây dựng và khai thác trong phát triển du lịch, đã và đang là trọng tâm của tuyến du lịch du khảo đồng quê Hải Phòng với các điểm du lịch phụ cận phong phú như xem rối cạn Bảo Hà, rối nước Nhân Hòa, thăm Ðình Nhân Mục, làng nghề tạc tượng Ðồng Minh ở Vĩnh Bảo và kéo dài tuyến ra Núi voi Kiến An, Ðồ Sơn, Cát Bà, làm nên nét đặc sắc không đâu có ngoài Hải Phòng. Sau khi dự án đường 10 hoàn chỉnh, tuyến du lịch từ quốc lộ 1 nối sang quốc lộ 10, liên kết những điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình, sang Cát Bà, Ðồ Sơn (Hải Phòng), Hạ Long, Móng Cái (Quảng Ninh) hoặc qua Ninh Giang (Hải Dương) về Hà Nội. Ðiều này góp phần đưa di tích Ðền Trạng trở thành tâm điểm của tuyến du lịch quốc gia và đang được nhiều hãng lữ hành quốc tế quan tâm đưa vào chương trình du lịch. Rượu Trạng Trình, cơm niêu, mái rạ, đàn bầu quê Trạng cùng những lời thơ, bia ký, Sấm truyền của Trạng và mở rộng hơn là những giá trị văn hóa tốt đẹp của vùng nông thôn duyên hải đang theo chân du khách đi khắp mọi miền đất nước, đến với bầu bạn năm châu, làm rạng danh quê hương, con người đất Trạng, góp phần phát triển du lịch Hải Phòng.  
Bình luận (0)
H24
5 tháng 3 2021 lúc 22:44

toàn chỗ nổi tiếng mà ko đc tả chì cũng chịu luôn 

Bình luận (0)
2T
Xem chi tiết
LS
23 tháng 3 2022 lúc 20:17

Chùa Trấn Quốc (Tây Hồ, Hà Nội).

Bình luận (0)
DT
23 tháng 3 2022 lúc 20:17

Chùa trấn quốc

Bình luận (0)
H24
23 tháng 3 2022 lúc 20:17

Chùa Trấn Quốc (Tây Hồ, Hà Nội)...

Bình luận (0)
HL
Xem chi tiết
VN
30 tháng 6 2017 lúc 17:44

Nơi gặp nhau cách Hà Nội: AG = s1 = v1.t = 45.2 = 90km

Bình luận (0)
DT
Xem chi tiết
DQ
17 tháng 3 2021 lúc 22:23

Gọi vận tốc ban đầuu của ô tô là \(x\) ( x#0) \(\dfrac{km}{h}\)

Thời gian đi từ Lạng Sơn về Hà Nội khi đi với vận tốc ban đầu là \(\dfrac{163}{x}\)

Quãng đường mà ô tô đi với vận tốc bằng 1,2 vận tốc trước là \(163-43=120\left(km\right)\)

Thời gian đi hết quãng đường 120km là \(\dfrac{120}{1,2x}\)

Thời gian đi hết 43km là \(\dfrac{43}{x}\)

Vì ô tô đi từ Lạng Sơn về Hà Nội kịp giờ nên ta có phương trình

\(\dfrac{43}{x}+\dfrac{40}{60}+\dfrac{120}{1,2x}=\dfrac{163}{x}\)

Tìm ra \(x=30\left(\dfrac{km}{h}\right)\) (thỏa mãn x#0)

Bình luận (0)
HD
Xem chi tiết
H24
16 tháng 3 2018 lúc 23:53

Ô tô đó đi 63 km hết:

        63 : 42 = 1,5 (giờ) = 1 giờ 30 phút.

Quãng đườg dài số km là:

        154 - 63 = 91 (km)

Ô tô đi hết 91 km:

        91 : 35 = 2,6 (giờ) = 2 giờ 36 phút.

Ô tô đến hà nội lúc: 

        6 giờ 15 phút + (1 giờ 30 phút + 2 giờ 36 phút) = 10 giờ 21 phút

                                                                                   Đáp số: 10 giờ 21 phút

Bình luận (0)
NL
28 tháng 4 2020 lúc 14:04

63 ở đâu ra vậybn

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa