Những câu hỏi liên quan
HD
Xem chi tiết
ND
Xem chi tiết
AT
5 tháng 8 2023 lúc 15:23

Tham khảo:

- Một số bài học kinh nghiệm từ các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm:

+ Bài học về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc: đoàn kết dân tộc là yếu tố đóng vai trò nền tảng, then chốt. Việc xây dựng, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện qua chính sách đoàn kết trong nội bộ tướng lĩnh, giữa tướng lĩnh và binh lính, giữa các tầng lớp nhân dân và các dân tộc....
+ Bài học về nghệ thuật quân sự: nổi bật là nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu chống mạnh; kết hợp giữa hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận,...

- Giá trị của các bài học kinh nghiệm:

+ Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học lịch sử của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị, có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - văn hóa; trong quá trình xây dựng và củng cố nền quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Bài học lịch sử của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam cũng có giá trị đối với chính sách đối ngoại của Việt Nam trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến đổi.

Bình luận (0)
GD
Xem chi tiết
ND
30 tháng 1 2024 lúc 16:01

- Khi tiếp thu cốt truyện từ “Kim Vân Kiều truyện”, Nguyễn Du đã thay đổi trình tự của một số sự kiện và lược bỏ nhiều chi tiết. Những thay đổi đó đều phù hợp với chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và tính cách các nhân vật mà Nguyễn Du muốn thể hiện. Ví dụ sự kiện: Kim – Kiều gặp gỡ trong ngày hội Đạp thanh; Sự kiện Kiều báo ân báo oán.

- Cốt truyện “Truyện Kiều” được tổ chức theo mô hình chung của truyện thơ Nôm: gặp gỡ - chia li – đoàn tụ. Tuy nhiên, khi sử dụng, Nguyễn Du vẫn có sự sáng tạo. Chẳng hạn, cách Nguyễn Du miêu tả bối cảnh cuộc gặp gỡ và quá trình tương tư, tìm kiếm cơ hội bày tỏ tình yêu – hẹn hò, đính ước, thề nguyền của Kim Trọng, Thúy Kiều. Hoặc đoạn kết của “Truyện Kiều” vừa theo mô hình chung (kết thúc có hậu, Thúy Kiều được đoàn tụ cùng gia đình và người yêu), vừa có sự phá cách (Thúy Kiều và Kim Trọng không có được hạnh phúc trọn vẹn).

- Ở bình diện nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đã đi đến lí tưởng hóa nhân vật, trao cho nhân vật những nét quá hoàn thiện, sắc và tài đều ở đỉnh cao. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du là nghệ thuật xây dựng nhân vật mang tính chất ước lệ cao. Ông lấy những vẻ đẹp tuyệt đối của thiên nhiên để nói về con người, trao cho nhân vật chính tài năng kiệt xuất.

Bình luận (0)
NH
Xem chi tiết
H24
14 tháng 10 2017 lúc 18:04

← Con gái đi học

Chương trình tăng cường tiếng Anh: Chất lượng đến đâu?→

Truyen QUẢ BẦU MẸ

Posted on August 29, 2008by htdthao

Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6, bài đầu tiên Khoa học là truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Phần câu hỏi có một câu hỏi về truyền thuyết của các dân tộc khác ở VN tương tự truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, hai mẹ con nghĩ mãi chẳng ra, gọi điện hỏi ông bà cũng không ai biết :no:

Mẹ tìm giúp con trên mạng, rất là lâu mới tìm được nội dung câu chuyện, các bài nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc VN nói rất nhiều về truyện "Quả bầu mẹ", nhưng không kể lại câu chuyện này mà chỉ đưa một số ý ra để phân tích.

TRUYỆN “QUẢ BẦU MẸ”

Xưa có hai anh em, một trai một gái, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ. Một hôm nọ vào rừng kiếm ăn, gặp một con Dúi, bèn đuổi bắt. Dúi chui vào hang. Hai anh em đào bắt được. Dúi xin tha và nói sở dĩ phải chui vào hang sâu vì trời sắp sập, sẽ có mưa ngập tất cả. Dúi khuyên hai anh em lấy một khúc gỗ to đẽo rỗng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ bảy ngày bảy đêm rồi chui vào trong đó.
Miệng khúc gỗ được bịt sáp ong như bưng thành mặt trống. khi hết hạn, hai anh em lấy lông Dím chọc thủng sáp ong, nếu thấy không có nước rỉ vào thì phá mặt trống mà ra. Hai anh em tha cho Dúi và làm theo lời Dúi bảo. Mưa lớn, nước ngập mênh mông. Đúng hạn, hai anh em chui ra, trống mắc trên cây Nhót, vì thế cây Nhót không bao giờ thẳng. Hai người leo xuống, tặng nhau nắp trầu làm tin rồi chia tay nhau đi tìm đồng bào. Hai người đi hai ngã nhưng lại gặp nhau, vì những người khác đã chết hết. Và họ cứ đi tìm như thế nhiều lần mà vẫn thất vọng vì mọi người khác đã chết hết. Lần cuối cùng, chim Tgoóc khuyên hai anh em nên lấy nhau để có con nối dõi, loài người được sinh sôi nảy nở. Ít lâu sau, người em có mang, chửa được bảy năm, bảy tháng, bảy ngày thì sinh ra một quả bầu. Người chồng muốn đập vỡ ra, người vợ tiếc đem gác lên gác bếp. Một lần đi làm nương về, hai người cứ thấy tiếng cười đùa trong nhà, nhưng đến khi vào nhà lại thấy im bặt. Lấy làm lạ, người chồng leo lên gác bếp ghé tai vào quả bầu, nghe có tiếng ầm ĩ, mang xuống định lấy dao chặt. Sợ như vậy chạm vào con, người vợ bảo lấy que đốt nhọn đầu và dùi lỗ. Bỗng có người Xá chui ra trước. Người chồng mừng quá, khoét lỗ rộng thêm, thì người Thái, người Lào, người Lự lại ra theo. Người vợ sốt ruột lấy củi phang vỡ quả bầu. Người Kinh, người Hán ra nốt, người Xá dính nọ nên đen, người Kinh người Hán ra sau nên trắng.

Câu chuyện trên đây được kể lại trong bài phân tích dưới đây về "văn hóa bầu bí" của người VN:

VĂN HOÁ BẦU BÍ

Việt Nam bao gồm trên 56 sắc tộc rải khắp từ cao nguyên đến đồng bằng, từ miền xuôi đến miền ngược, từ vùng sông trũng đến miền biển cả, nhiều sắc tộc nhưng lại hoà hợp, gần nhau về các đức tính, cách nghĩ suy và hướng tâm linh. Có một điều gì làm nên cái chung ấy, giải thích bằng huyền thoại cho ta gặp thấy trong các huyền thoại của các sắc tộc khác nhau, ta tìm thấy có một mẫu số chung ấy là Mẹ Việt Nam. Cụ thể có thể lấy một trong những mẫu truyện của miền Tây Bắc, chuyện kể rằng:

“Xưa có hai anh em, một trai một gái, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ. Một hôm nọ vào rừng kiếm ăn, gặp một con Dúi, bèn đuổi bắt. Dúi chui vào hang. Hai anh em đào bắt được. Dúi xin tha và nói sở dĩ phải chui vào hang sâu vì trời sắp sập, sẽ có mưa ngập tất cả. Dúi khuyên hai anh em lấy một khúc gỗ to đẽo rỗng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ bảy ngày bảy đêm rồi chui vào trong đó.

Miệng khúc gỗ được bịt sáp ong như bưng thành mặt trống. khi hết hạn, hai anh em lấy lông Dím chọc thủng sáp ong, nếu thấy không có nước rỉ vào thì phá mặt trống mà ra. Hai anh em tha cho Dúi và làm theo lời Dúi bảo. Mưa lớn, nước ngập mênh mông. Đúng hạn, hai anh em chui ra, trống mắc trên cây Nhót, vì thế cây Nhót không bao giờ thẳng. Hai người leo xuống, tặng nhau nắp trầu làm tin rồi chia tay nhau đi tìm đồng bào. Hai người đi hai ngã nhưng lại gặp nhau, vì những người khác đã chết hết. Và họ cứ đi tìm như thế nhiều lần mà vẫn thất vọng vì mọi người khác đã chết hết. Lần cuối cùng, chim Tgoóc khuyên hai anh em nên lấy nhau để có con nối dõi, loài người được sinh sôi nảy nở. Ít lâu sau, người em có mang, chửa được bảy năm, bảy tháng, bảy ngày thì sinh ra một quả bầu. Người chồng muốn đập vỡ ra, người vợ tiếc đem gác lên gác bếp. Một lần đi làm nương về, hai người cứ thấy tiếng cười đùa trong nhà, nhưng đến khi vào nhà lại thấy im bặt. Lấy làm lạ, người chồng leo lên gác bếp ghé tai vào quả bầu, nghe có tiếng ầm ĩ, mang xuống định lấy dao chặt. Sợ như vậy chạm vào con, người vợ bảo lấy que đốt nhọn đầu và dùi lỗ. Bỗng có người Xá chui ra trước. Người chồng mừng quá, khoét lỗ rộng thêm, thì người Thái, người Lào, người Lự lại ra theo. Người vợ sốt ruột lấy củi phang vỡ quả bầu. Người Kinh, người Hán ra nốt, người Xá dính nọ nên đen, người Kinh người Hán ra sau nên trắng."

Giải mả mẫu huyền thoại trên ta thấy, không riêng gì dân tộc phía Tây Bắc có câu chuyện như vậy, mà có cả trên trăm truyện na ná như thế hình thành từ nhiều sắc tộc khác nhau. Điều quan trọng không chỉ là diễn giải con người có cùng nguồn gốc, nhưng một triết lý quan trọng, đó là một triết lý nhân sinh quan đến vũ trụ quan và cuối cùng là nhận thức siêu hình.

Nhận thức nhân sinh quan, người ta thấy câu truyện bắt nguồn từ khi con người bắt đầu biết trồng trọt. Nghề lúa nước thưở xưa cần nhiều người hợp lực, gắn kết con người sống chết với nhau, từ đó cũng có người gọi nền văn hoá nông nghiệp sơ khai ấy là nền “văn hoá bầu bí”. Nền “văn hoá bầu bí” muộn nhất cũng phát triển từ thời đồ đá mới. Bầu bí thưở xưa gắn bó với nền văn hoá Đông Dương, biểu lộ một đời sống sung túc hơn vào thời hái lượm nhờ trồng trọt được thêm những hoa quả làm tăng giá trị dinh dưỡng. Từ khi trồng trọt được, con người sống định cư, để ổn canh họ tổ chức thành xã hội, cơ cấu xã hội ban đầu ấy dựa vào tình thương để đùm bọc lẫn nhau để sống: “Bầu ơi, thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Ý thức về xã hội tập hợp gồm nhiều dân tộc sống cùng nhau trên mảnh đất, đòi hỏi của nghề lúa nước là “tối lửa tắt đèn có nhau” làm tiêu chí để “an cư lạc nghiệp”.

Những xung đột về sắc tộc bắt nguồn từ khi con người tăng trưởng về số lượng, vùng đất xưa canh tác trở nên nhỏ hẹp. Người ta liên kết theo từng nhóm sắc tộc để đấu tranh sinh tồn chống lại những nhóm người khác tới. Những huyền thoại bắt đầu có sự riêng rẽ, phân biệt sắc tộc này với sắc tộc nọ, cũng nhằm củng cố tinh thần của nhóm sắc tộc của mình, huyền thoại không còn dừng ở huyết thống mà theo vùng cư trú. Có những huyền thoại mang dấu vết chia rẽ hận thù giữa các dân tộc cũng hình thành từ đấy.

Con người bắt đầu liên kết với nhau và phân rẽ nhau cũng vì miếng ăn. Đọc lại huyền thoại phải chăng là cách để nối lại tình xưa đã mất mà gạt đi những ích kỷ nhỏ nhen, những tỵ hiềm, tranh chấp chỉ vì miếng ăn. Người ta sống đâu chỉ là ăn mà là còn ở được với nhau. Quả bầu Mẹ, cần nhắc lại để thắp lại tình anh chị em đã mất, để nhận ra nhau là anh chị em là những con người cần có tình thương hơn những khi cần bánh.

Huyền thoại quả bầu Mẹ cũng cho biết một vũ trụ quan của người cổ xưa. Theo cốt truyện, con người luôn đối diện với một thực tế khó khăn luôn phải đương đầu với tai hoạ của thiên nhiên. Được nhắc nhiều nhất trong các huyền thoại của các dân tộc là nạn hồng thuỷ. Hồng thuỷ có ở Cựu Ước, gia đình ông Noê được cứu thoát cùng với nhiều loài gia súc từng đôi một. Ở nhiều huyền thoại của các cư dân khác cũng thấy như vậy. Theo cư dân miền nhiệt đới, hồng thuỷ bắt nguồn từ việc trời mưa kéo dài: “Ba năm, ba tháng, ba ngày” hoặc “Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày”. Con số ba và bảy nói đến thời gian rất dài chứ không có ý nói đến đúng hạn thời gian. Con số ba và bảy là con số biểu lộ tính cách tư duy số lẻ của người Đông Phương. Sự tích con Dúi biết được trời mưa rất lớn, có dân tộc giải thích là con Dúi nhờ thường đi lại với người trên thượng giới, như dân tộc Lamét, một nhánh của tộc Khmú dân tộc Lào. Còn có tộc người Vân Kiều giải thích đó là sự thông minh của con Cóc. Người Việt cũng nói “Con Cóc là cậu ông Trời” vì Cóc kêu là mưa sắp tới, đi từ hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng thiên giới.

Cốt truyện còn cho thấy: Bao giờ những người thoát nạn cũng là mẫu người hiền lành, phúc đức. Gầy dựng lại một giống người hiền lành, phúc đức, bởi vì có quá nhiều xung khắc giữa con người làm nghẹt thở lẫn nhau. Cũng vậy, quan niệm Trời cao cũng có mắt để một lúc nào đó nổi giận mà tiêu diệt những kẻ gian ác, xấu xa, để thiên nhiên thuận hoà với con người hơn. Ngươi ta tin có Trời soi xét mọi việc, nên mọi việc oan ức cũng nhờ Trời minh xét mà giải thoát người sống ngay lành.

Trong 96 truyện thu nhập được tại Đông Nam Á, thì có 63 truyện nói đến việc cả hai người chui vào quả bầu để lánh nạn. Quả bầu tại sao quan trọng đến thế? sở dĩ như đã nói nền “Văn hoá Bầu Bí” là nền văn hoá lấy tình thương mà sống với nhau. Khi không còn ở được với nhau thì người ở được với ai. Khi con người bẻ gẫy tương quan người với nhau thì cũng bẻ gẫy tương quan với Trời và với thiên nhiên. Quả Bầu Mẹ, một bài học nhắn nhủ lập lại tính tương giao giữa con người với con người bằng tình huyết thống, lập lại tương quan giữa con người với thiên nhiên như Bài ca Tạo Vật diễn tả: “anh mặt trời, chị mặt trăng” để cuối cùng được tình trời thương đoái. Khi con người ở đuợc với nhau, tìm thấy sự thuận hoà với thiên nhiên thì cũng đẹp lòng với Trời. Từ đó, cũng hình thành một lối sống “dĩ hòa vi quý”, chuộng thanh bình hơn chiến tranh, lấy tâm hơn lấy lý và để minh xét mọi việc người ta dựa vào Trời, tin vào Trời thấy hết và điều khiển mọi sự trong trật tự an hoà.

Hình tượng quả bầu Mẹ có nhiều hình thức diễn tả: Bọc trứng trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dòng con Việt. Trang sử thi Ramana của Ấn Độ có truyện nàng Xumati vợ vua Xagara sinh ra quả bầu chứa sáu vạn đứa con. Người Lào có quả bầu gọi là “Mác Nậm Tao Pung”…

Quan niệm về văn hoá Mẹ là một quan niệm khá phổ biến trong vùng Đông Nam Á, thưở hồng hoang lịch sử có lẽ người ta biết đến Mẹ nhiều hơn cha. Chính vì thế mà quả bầu mẹ có một chỗ đứng quan trọng trong các huyền thoại của các dân tộc.

Bình luận (0)
KS
14 tháng 10 2017 lúc 18:05

sự kiện lịch sử là : sự kiện lịch sử là những gì diễn ra trong quá khứ , được tái diện lại bỡi những bài viết chân thật nhắm cho con người sau biết 

và lấy nó làm kinh nghiệm để rút ra bài học cho riêng mình

Bình luận (0)
KS
14 tháng 10 2017 lúc 18:07

cốt truyện bạn tự tìm hiểu

Bình luận (0)
QL
Xem chi tiết
HM
20 tháng 12 2023 lúc 16:33

- Phần 1: Từ đầu đến “di lên vách bếp”

+ Chú San đi lấy vợ 

+ Dì Mây trở về xóm Trại

- Phần 2: Tiếp đến “Sóng nước lao xao”

+ Cuộc sống giản dị của dì Mây ở quê nhà 

- Phần 3: Tiếp đến “ở phía cuối con đường về bến”

+ Dì Mây giúp cô Thanh (vợ chú San) vượt cạn

- Đoạn 4: Còn lại

+ Những phẩm chất cao đẹp của dì Mây 

→ Tác giả đã xây dựng cốt truyện với rất nhiều những sự việc, tình huống bất ngờ, cao trào, hấp dẫn. Để câu chuyện hấp dẫn và thu hút được người đọc.

Bình luận (0)
H24
Xem chi tiết
MP
29 tháng 8 2023 lúc 8:57

Sự kiện chính của mỗi phần: Dì Mây về làng, chú San đi lấy vợ, chú lấy cô Thanh giáo viên. Khi biết Mây trở về chú San đã sang và xin lỗi còn muốn làm lại với dì Mây nhưng dì không đồng ý.

Từ khi chuyển về bến sông Châu dì Mây buồn lắm, lúc nào cũng thơ thẩn, cứ nhắc đến chuyện lấy chồng dì Mây lại buồn.

Khi trạm xá được xây, thiếu người dì đã trở lại nghề. Vợ chú San đẻ cạn ối, dì cũng là người đỡ đẻ, khâu xong mọi thứ dì gục ngã ngay trên bàn và khóc nức nở.

Bến sông đầy bom chưa nổ cũng chính vì thế nên thím Ba chết vì đun te vướng bom bi. Dì Mây nhận nuôi thằng Cún. Dì ru thằng bé ngủ tiếng ru đã khiến những anh lính công binh bắc cầu dừng tay lắng nghe, tiếng ru êm đềm của dì hòa vào hương thơm của cỏ cây, đất trời.

Cách xây dựng cốt truyện của tác giả tuy giản dị nhưng lại gây ấn tượng mạnh đến độc giả, tạo cho người đọc thấu hiểu được từng lớp văn chương. Từ không gian đến thời gian chỉ xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng ghép vào xen kẽ rất đặc biệt, nói về làng quê với cái nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan xen vào nhau và vốn am hiểu, cảm thông với người phụ nữ đã  làm rung động tâm hồn độc giả.

Bình luận (0)
TA
4 tháng 3 2023 lúc 1:47

     Sự kiện chính của mỗi phần: Dì Mây về làng, chú San đi lấy vợ, chú lấy cô Thanh giáo viên. Khi biết Mây trở về chú San đã sang và xin lỗi còn muốn làm lại với dì Mây nhưng dì không đồng ý.

     Từ khi chuyển về bến sông Châu dì Mây buồn lắm, lúc nào cũng thơ thẩn, cứ nhắc đến chuyện lấy chồng dì Mây lại buồn.

 

     Khi trạm xá được xây, thiếu người dì đã trở lại nghề. Vợ chú San đẻ cạn ối, dì cũng là người đỡ đẻ, khâu xong mọi thứ dì gục gã ngay trên bàn và khóc nức nở.

     Bến sông đầy bom chưa nổ cũng chính vì thế nên thím Ba chết vì đun te vướng bom bi. Dì Mây nhận nuôi thằng Cún. Dì ru thằng bé ngủ tiếng ru đã khiến những anh lính công binh bắc cầu dừng tay lắng nghe, tiếng ru êm đềm của dì hòa vào hương thơm của cỏ cây, đất trời.

     Cách xây dựng cốt truyện của tác giả tuy giản dị nhưng lại gây ấn tượng mạnh đến độc giả, tạo cho người đọc thấu hiểu được từng lớp văn chương. Từ không gian đến thời gian chỉ xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng ghép vào xen kẽ rất đặc biệt, nói về làng quê với cái nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan xen vào nhau và vốn am hiểu, cảm thông với người phụ nữ đã  làm rung động tâm hồn độc giả.

Bình luận (0)
NN
Xem chi tiết
NN
Xem chi tiết
VK
Xem chi tiết
CD
31 tháng 7 2018 lúc 6:00

Vào một buổi sáng thứ năm tựu trường,em đã là học sinh cuối lớp năm rồi lòng em như bối rối ,sắp xa mái trường thân thương .Lúc lễ kết thúc, em cùng các bạn chạy đến chúc Cô những lời chúc thân yêu nhất.Rồi chúng em cùng nhau tuyên thệ rằng 20/11 sẽ về thăm trường,tuyên thệ xong chúng em tụ họp lại tổ chức một buổi ra trường thật linh đình và rộn rã.

k mình nha!

Bình luận (0)
VK
31 tháng 7 2018 lúc 17:47

Viet dai mk moi k nha

Bình luận (0)
UM
Xem chi tiết
H24
30 tháng 11 2021 lúc 14:16

C

Bình luận (2)
TP
30 tháng 11 2021 lúc 14:16

C.Đều được xây dựng bằng yếu tố kì ảo.

Bình luận (0)
H24
30 tháng 11 2021 lúc 14:16

C

Bình luận (1)