Những câu hỏi liên quan
HV
Xem chi tiết
TT
5 tháng 3 2021 lúc 22:44

“Hải Phòng có bến Sáu KhoCó sông Tam Bạc, có lò Xi măng”

Nhắc đến Hải Phòng, ta không thể không nhắc đến quần thể khu du lịch quận Đồ Sơn - miền đất của những huyền thoại, với nhiều nét đẹp phong cảnh hùng vĩ, nên thơ và đầy tráng lệ.

Đồ Sơn là một bán đảo đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển 5 km với hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m và là một quận thuộc thành phố Hải Phòng cách trung tâm thành phố 22km về phía Đông Nam, được mệnh danh là vùng đất “long chầu hổ phục”, gồm bảy phường: Bàng La, Hợp Đức, Minh Đức, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên, Vạn Hương, Vạn Sơn. Nước ở Đồ Sơn có phần đục hơn những nơi khác vì nơi đây phía Bắc và phía Nam tiếp giáp với hai con sông Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa, cộng thêm việc quai đê lấn biển ở Đảo Hòn Dấu để xây dựng khu Resort cao cấp, tuy nhiên nước nơi đây có độ mặn vừa phải, hơi muối bốc lên ít giúp da không bị cháy nắng kể cả khi tắm vào ban trưa. Đồ Sơn xưa kia còn là nơi lui tới nghỉ ngơi, hưởng thụ của vua chúa, quan lại đô hộ, là bãi tắm nổi tiếng dưới thời Nguyễn và Pháp thuộc. Không chỉ vậy Đồ Sơn còn là quê cũ của người Kinh Tam Đảo, vào giữa thế kỉ XVI-XVII, hơn trăm người dân ở Đồ Sơn đã di cư theo đường biển đến lập nghiệp trên ba hòn đảo nhỏ (được gọi chung là Tam Đảo) sau này trở thành các thôn Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm ngày nay thuộc thị xã Đông Hưng (Quảng Tây), nằm trong địa phận quản lí của địa cấp thị Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, gần biên giới Trung - Việt, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 25 km. Tuy đã trải qua hơn 500 năm hòa nhập với nền văn hóa địa phương nhưng người Kinh Tam Đảo vẫn nói bằng tiếng Việt cổ và duy trì một số tập tính của người Việt.

Nét đẹp độc đáo của Đồ Sơn phải kể đến sự kết hợp vô cùng hài hòa giữa tiếng sóng vỗ rì rào trên biển nước mênh với bờ cát trắng và sự tĩnh lặng của những dãy núi, đồi thông, phi lao,… sừng sững, hùng vĩ, nên thơ. Bãi biển Đồ Sơn được chia làm ba khu vực gồm khu một, khu hai và khu ba được nối với nhau bằng tuyến đường nhựa trải dài. Khu một có khá nhiều quán ăn, nhà hàng, khách sạn, nằm phía đầu của Đồ Sơn, nhưng nơi đây lại rất ít người tắm vì sóng ở khu một rất lớn, địa hình nhiều bãi đá, hàu sắc nhọn, bù lại ở đây lại là địa điểm ngắm cảnh biển bình minh rất lí tưởng và còn gần với khu di tích chùa Hang Cốc Tự, giúp cho du khách có thể thăm thú cảnh chùa chiền. Khu hai là bãi tắm chính, nước ở đây tuy đục nhất trong ba khu nhưng lại thu hút nhiều du khách đến tắm và vui chơi nhất, đồng thời khu hai gần với biệt thự Bảo Đại cùng di tích Bến Nghiêng. Khu cuối cùng là khu ba với hàng trăm công trình kiến trúc đẹp mắt mà tiêu biểu là khu du lịch Hòn Dấu. Đến với khu du lịch Đảo Dáu, du khách được bơi lội trong bể nước nhân tạo lớn nhất Châu Á cùng với một số loại hình giải trí khác như: vườn thú, khu vui chơi giải trí, các khách sạn đẳng cấp 3 đến 5 sao và đặc biệt là ngọn hải đăng cổ kính hơn trăm năm tuổi hay khu “Đà Lạt thu nhỏ” mới được xây dựng thêm vào năm. Không chỉ vậy, nơi đây còn có di tích bến tàu không số, nằm ở chân đồi Nghĩa Phong, tìm hiểu về con đường Hồ Chí Minh trên biển đầy gian khổ hay sòng Bạc Do Son Casino thu hút nhiều du khách quốc tế đếm chơi, đặc biệt là du khách Trung Quốc, tuy nhiên sòng bạc không cho người dân nội địa tới chơi. Từ Đồ Sơn, du khách có thể đi du thuyền đến tham quan đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long, Tuần Châu. Ngoài ra nơi đây còn có những nét đẹp văn hóa riêng biệt, cứ đến dịp lễ Tết, du khách tứ phương cùng với người dân bản địa sẽ đến viếng thăm đền Bà Đế, cầu phúc cho mưa thuận gió hòa. Ngoài ra nơi đây còn có lễ hội Đảo Dấu thắp hương, dâng lễ để cầu cho một năm buôn bán bội thu, làm ăn thuận lơi và đặc biệt không thể không kể đến là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn diễn ra hằng năm với hai vòng: vòng sơ loại tổ chức vào mùng 8 tháng 6 âm lịch, vòng chung kết tổ chức vào 9 tháng 8 âm lịch. Những con trâu chiến thắng sẽ được thịt và bán với ý nghĩa cầu thịnh vượng, hạnh phúc.

Ngoài những nét đẹp về cảnh sắc thiên nhiên, hữu tình và nên thơ, Đồ Sơn còn được vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên của Việt Nam – đảo Hoa Phượng, lưu giữ nhiều dấu ấn của lịch sử với những biệt thự, lăng tẩm mang đậm phong cách thời Nguyễn và còn có giá trị văn hóa độc đáo. Chính vì vậy Đồ Sơn cần được duy trì và bảo tồn nét đẹp thiên nhiên để nơi đây không bị mất đi những giá trị tốt đẹp, mãi trường tồn với thời gian.

Bình luận (0)
MN
5 tháng 3 2021 lúc 23:17

Tham khảo nha em:

Chương trình du lịch đồng quê Hải Phòng đang trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù với điểm nhấn hấp dẫn là khu di tích Ðền Trạng, thờ Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585), vị Trạng nguyên lỗi lạc, mt danh nhân văn hóa lớn của đất nước. Không chỉ được biết đến là một nhà thơ, nhà triết học, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là ông Trạng của dân gian qua 300 câu sấm Trạng lưu truyền đời này sang đời khác. Không sa vào mê tín, thần bí, nhưng việc khôi phục sự hấp dẫn về văn hóa tâm linh, cắt nghĩa một cách có cơ sở triết học, suy tôn một danh nhân văn hóa dân tộc là cần thiết để hướng dẫn du khách khi đến nơi đây thành kính thắp nén hương tưởng nhớ, tìm hiểu và nghe bình sấm Trạng, lôi cuốn du khách với mục đích hướng thiện. Ðã nghe và từng đọc về Trạng Trình, chắc chắn nhiều du khách mong muốn hơn một lần được đến tận nơi để mắt thấy, tai nghe và có những giây phút thư thái: cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà để đắm mình vào không gian lịch sử mà sinh thời Trạng từng trải.Ðền Trạng được xây dựng từ khoảng năm 1586, sau đó đã được trùng tu qua các đời và đã được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia từ năm 1991. Cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm Ngày mất của Trạng Trình, UBND Thành Ph Hải Phòng đã phê duyệt kế hoạch nâng cấp quần thể di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm với các hạng mục công trình: Quán Trung Tân, mộ phần cụ Nguyễn Văn Ðịnh (thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm), khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa Song Mai, nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tu hành. Ðường đi được làm lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được quy hoạch với cảnh quan đẹp và khang trang. Việc quy hoạch, trùng tu, xây dựng khu di tích Ðền Trạng thể hiện cao nhất tính lịch sử, giá trị văn hóa, đồng thời nắm bắt được những nhu cầu hàng đầu của du khách khi về thăm Ðền Trạng. Tham quan các di tích, du khách có thể hiểu phần nào về một nhà nho ưu thời, mẫn thế, lấy chí trung là chí thiện Chí thiện tư vi cực, để cắt nghĩa về một đời tài hoa, xuất xử linh hoạt đến kỳ lạ, ở ẩn trước khi làm quan: Thánh 40 tuổi chẳng còn ngờ/ Ta tuổi 40 vẫn líu lô/ Ðảo lý nẻo xa đen như mực/ Văn chương nghề cũ xác như vờ. Và "hưu tại chức, quan tại nhà", 45 tuổi mới đi thi, làm quan vào hàng đầu triều tám năm lại rũ áo ra về ở ẩn, về mà: "Xa vua đâu phải đã nguôi lòng", vẫn "Phù trì xã tắc ngửa nghiêng, Ruổi rong há chịu ngồi yên phận già", đến "Quá bảy mươi tư mới Mừng được về nhà, thăm chốn xưa". Ðây còn là nơi đã tạo nguồn cảm hứng của 1.000 bài thơ Hán, Nôm, nói lên sự thanh bạch, trong sáng của lòng trung, nơi đã từng đào tạo hàng trăm nhân tài cho đất nước. Dân làng Trung Am đã khéo chọn hoành phi "An nam Lý Học", và đôi câu thơ treo dọc chính giữa Ðền như hai câu đối: Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Ðắc Quốc ưng tri tại đắc dân (Xưa nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết bởi được dân)... Thăm khu di tích, nghe về thơ văn, thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, du khách còn được thưởng thức cả hương vị ẩm thực của quê hương Trạng. Người dân Vĩnh Bảo khéo tay, hay làm, chế biến nhiều món ăn đồ uống địa phương đa dạng, sẽ làm hài lòng du khách. Phác họa đôi nét như vậy để thấy được sức hấp dẫn của chương trình du lịch thăm khu Ðền Trạng. Chương trình được nghiên cứu với một hàm lượng văn hóa cao, trên cơ sở tôn trọng lịch sử, lôi cuốn du khách qua những di tích, di sản còn lại, đặc biệt là qua thơ văn, bia, sấm Trạng và nội dung hướng dẫn, thuyết minh về thân thế, sự nghiệp, tài thơ văn, tài tiên tri, phong cách, lối sống, đạo đức, tấm lòng đau nước thương dân của danh nhân văn hóa Trạng Trình, đúng với "tiếng tăm lừng lẫy như sấm rền, năng lực như cột trụ chống trời, tài năng kiệt xuất, dung mạo rực rỡ như tiên nơi trần thế" của Trạng Nguyên Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khu di tích Ðền Trạng được giữ gìn, trùng tu, xây dựng và khai thác trong phát triển du lịch, đã và đang là trọng tâm của tuyến du lịch du khảo đồng quê Hải Phòng với các điểm du lịch phụ cận phong phú như xem rối cạn Bảo Hà, rối nước Nhân Hòa, thăm Ðình Nhân Mục, làng nghề tạc tượng Ðồng Minh ở Vĩnh Bảo và kéo dài tuyến ra Núi voi Kiến An, Ðồ Sơn, Cát Bà, làm nên nét đặc sắc không đâu có ngoài Hải Phòng. Sau khi dự án đường 10 hoàn chỉnh, tuyến du lịch từ quốc lộ 1 nối sang quốc lộ 10, liên kết những điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình, sang Cát Bà, Ðồ Sơn (Hải Phòng), Hạ Long, Móng Cái (Quảng Ninh) hoặc qua Ninh Giang (Hải Dương) về Hà Nội. Ðiều này góp phần đưa di tích Ðền Trạng trở thành tâm điểm của tuyến du lịch quốc gia và đang được nhiều hãng lữ hành quốc tế quan tâm đưa vào chương trình du lịch. Rượu Trạng Trình, cơm niêu, mái rạ, đàn bầu quê Trạng cùng những lời thơ, bia ký, Sấm truyền của Trạng và mở rộng hơn là những giá trị văn hóa tốt đẹp của vùng nông thôn duyên hải đang theo chân du khách đi khắp mọi miền đất nước, đến với bầu bạn năm châu, làm rạng danh quê hương, con người đất Trạng, góp phần phát triển du lịch Hải Phòng.  
Bình luận (0)
H24
5 tháng 3 2021 lúc 22:44

toàn chỗ nổi tiếng mà ko đc tả chì cũng chịu luôn 

Bình luận (0)
HD
Xem chi tiết
H24
21 tháng 3 2021 lúc 22:51

Qua thị trấn Núi Sập một đỗi, ta sẽ đến chợ Ba Thê, nay có tên mới là thị trấn Óc Eo. Nơi đây đã từng là một thương cảng phồn thịnh thời trung cổ bị vùi lấp dưới lớp đất phù sa hơn 3m. Người ta đã phát hiện di chỉ nầy vào năm 1942 và khám phá ra thành cổ Óc Eo vào năm 1944, lúc đào kinh xáng Ba Thê. Có nhiều cổ vật thu được như khuôn chế tác vật dụng và nữ trang bằng gốm, đá, vàng, đồng. Các tượng đá mang dấu ấn văn hóa Phật Giáo và Hindu giáo rất đa dạng như tượng Phật, linh vật, Yoni và Linga có niên đại cách đây trên dưới một thiên niên kỷ rưỡi. Đặc biệt là nhóm tượng Ganesa với mình người đầu voi trông rất ấn tượng. Bảo tàng tỉnh An Giang hiện có trưng bày nhiều hiện vật và phiên bản của nhiều cổ vật, tượng, xương thú hóa thạch...
Muốn lên núi Ba Thê phải mua vé: 7.000 đồng cho hai người, một xe. Có một con đường nhỏ lát bê tông bề ngang chừng 3m, ngoằn ngoèo uốn lượn chạy quanh co lên đỉnh. Xe hon-đa phải gài số 1, leo núi. Hai bên đường là rừng cây thâm u, vách đá và vực sâu thăm thẳm. Đường lên đỉnh chỉ chừng 2km, nhưng phải chạy xe độ 15 phút. Bên đường, phía vực, có lan can bảo hiểm, khá an toàn cho người, xe. Con đường nầy có từ đời Pháp thuộc, đến chế độ cũ được sửa lại để phục vụ cho mục đích quân sự. Năm 2002, đường lên núi Ba Thê được Nhà nước đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh, an toàn để phục vụ cho du lịch. Nhưng khách ở đây chưa đông, dù đường đến Ba Thê khá thuận tiện, chỉ cách thành phố Long Xuyên chừng 28km, già nửa đường đi Thất Sơn - Núi Cấm.
Trên đỉnh Vọng Thê có ngôi chùa cổ tên Sơn Tiên Tự được dựng vào năm 1933. Trước sân chùa có tượng Phật Quan Thế Âm bồ tát cao chừng 8m, đứng trên tòa sen, khoác áo choàng đỏ, uy nghi, tự tại, sừng sững trên đỉnh núi như nhìn bao quát khắp thế gian. Ở trên đỉnh núi mây bay là đà mang hơi sương mát lạnh, cỏ cây xanh tốt ngút ngàn. Có nhiều tiếng chim hót líu lo, ríu rít khắp nơi. Thỉnh thoảng tiếng chuông chùa ngân vọng thênh thang, bàng bạc khắp núi rừng làm bâng khuâng, xao xuyến lòng người. Cạnh ngôi tháp xá lợi cổ bên chùa, có bia kỷ niệm ghi lại chiến công oanh liệt của quân giải phóng Ba Thê - Thoại Sơn, đã tiêu diệt gọn cứ điểm của địch trên đỉnh Hoa Thê Sơn vào ngày 6 tháng 5 năm 1968.

Bình luận (0)
CN
Xem chi tiết
H24

về chứ  ko phải vệ

Bình luận (0)
NS
Xem chi tiết
NM
2 tháng 3 2021 lúc 12:18

Quê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là đường đi họcCon về rợp bướm vàng bayQuê hương – Đỗ Trung QuânVâng! Quê hương là cái nôi của cuộc đời nuôi dưỡng tâm hồn ta từ những ngày tấm bé. Quê hương mang đến dòng sữa mẹ thơm mát ngọt ngào cùng những lời ru ầu ơ trầm lắng của bà đưa ta vào giấc ngủ say.Thật tự hào khi tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Tĩnh thân thương – nơi khí hậu không kém phần khắc nghiệt nhưng lại được thiên nhiên ưu đãi ban cho nhiều cảnh đẹp.Hà Tĩnh là dải đất của Tổ quốc Việt Nam có từ thời Văn Lang – Âu Lạc. Theo thời gian, Hà Tĩnh qua nhiều tên gọi, nhiều lần gộp tỉnh rồi tách tỉnh cho đến năm 1991 Hà Tĩnh là một tỉnh độc lập và cái tên ban đầu vẫn được giữ.Là vùng đất nối tiếp Nghệ An, giáp với Quảng Bình, Hà Tĩnh có ít đồng bằng, không giống như ngoài Bắc hay trong Nam Bộ, phía Tây là dãy Trường Sơn làm chỗ dựa và phía Đông là biển cả trước mặt. Nhìn chung quê tôi là vùng đất khó khăn, khí hậu khắc nghiệt mà người xưa thường gọi là đất “ tứ đăc” – bốn bề hiểm trở. Hà Tĩnh có sông Lam nhiều thác ghềnh, trước cũng từng được xem là con sông đẹp nhất của Việt Nam.Núi sông tạo vẻ nên thơ, vừa tạo vẻ dữ dội khi mùa thác lũ. Bên cạnh núi rừng thâm u, trùng điệp hiếm những đồng bằng xanh tốt thẳng cánh cò bay như Cửu Long, Thái Bình, tạo nên cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ, rợn ngợp như luôn thử thách, rèn giũa con người. Con người tồn tại phải vừa kiên cường, vừa hào phóng, vừa chắt góp,bền bỉ…Chắc rằng trong mỗi chúng ta ai cũng đã từng được nghe câu hát: “Mời anh về Hà Tĩnh đi dọc đường cái quan Vào tận Đèo Ngang rồi vòng lên Rú Lệ, Trên đường xuôi xuống bể ghé Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà ra Hồng Lĩnh.” Đến Hà Tĩnh, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh vật thiên nhiên kì vĩ nơi đây:Chín mươi chín ngọn núi HồngChín mươi chín con chim đậu, một con vùng bay điNúi Hồng Lĩnh (tên Nôm là Ngàn Hống hay Rú Hống, cũng đọc là Hống, tên chữ là Hồng Sơn (núi Hồng) hay Hồng Lĩnh) thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Là dãy núi nổi tiếng nhất Hà Tĩnh, từng được xếp vào danh sách 21 danh thắng của nước Nam khi xưa. Cùng với sông Lam, núi Hồng Lĩnh được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ.Cùng với núi Hồng sông La, dòng Ngàn Sâu, Ngày Mọ hiền hòa, những bải biển Thiên Cầm, Thạch Hải,…góp phần tạo nên bức tranh họa đồ Hà Tĩnh.Được thiên nhiên tạo hóa ban nhiều cảnh vật, và như để tạo sự tương khắc, hài hòa, khí hậu nơi đây không mấy dễ chịu. Mùa nóng cũng nóng hơn, đồng ruộng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy. Gió khô gây thiếu nước, nạn cháy rừng vì vậy hay xảy ra. Cái gió Lào thô ráp vào những buổi trưa hè oi ả phả vào da thịt vừa nóng vừa rát là nét riêng chỉ có ở Hà Tĩnh, ở làn da bánh mật của mỗi con người. Cái cảm giác ấy cứ bám lấy khi đất trời vào hạ khiến ta chẳng thể nào quên được. Mùa mưa Hà Tĩnh dai dẳng không đều, lo chống hạn, lo chống lụt là hai tình trạng hiểm nghèo luôn đe dọa con người xứ này. Cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt góp phần tôi luyện hình thành một truyền thống, một nhân cách riêng của con người xứ Nghệ - Tĩnh.Hoàn cảnh sống tạo nên tính cách con người Hà Tĩnh, sản sinh một nền văn hóa có màu sắc riêng, đậm tính đặc trưng và giàu tính dân tộc. Tinh thần con người Hà Tĩnh làm lộ một cách rõ rệt lòng phụng thờ, sự cố gắng cùng những tính nhẫn nại kiên quyết của một dân tộc nông nghiệp chật vật tranh giành một chỗ sống dưới mặt trời:“Quê tôi sớm tinh mơ tiếng gà gọi cha vác quốc ra đồng.Ai đem nắng đong đầy tới vai, cháy những giọt mồ hôi...”Mảnh đất quê hương sinh ra nhiều anh hùng liệt nữ, hữu danh và vô danh. Tác giả “Hoan châu phong thổ kí” có viết: “ Con người Nghệ Tĩnh vẫn được tiếng là gân guốc, khô khan, con người rắn rỏi lý tính, giàu nghị lực”.Hay: “ Tính tình cứng cỏi, ham thích văn chương, ham thích lao động và dũng cảm kiên trì chống trọi đất đai cằn cỗi để kiếm sống”. – H.Le BretonCũng có những ngộ nhận rằng con người Hà Tĩnh khô khan, keo kiệt, thực dụng nhưng có lẽ, nhận xét của Gs. Đặng Thai Mai vẫn là thấu tình đạt lý nhất : “… Con người ở đây đối với tự nhiên, đối với con người, đối với cái đẹp của lý tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt nhưng lại có phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, cảm động đến thiết tha”.Hà Tĩnh là đất văn vật, nổi tiếng vì nhiều người đỗ đạt cao nhưng nổi bật hơn là cốt cách con người xứ Nghệ. Cốt cách con người Hà Tĩnh từ xưa là yêu cái đẹp, hiếu trọng đạo lý. Người ta cho con đi học để biết đạo làm người, lớn lên “ xả thân thủ nghĩa”:Con ơi mẹ dặn câu nàyChăm lo đèn sách cho tày áo cơmLàm người đói sạch rách thơmCông danh là nợ, nước non phải đền.Nhân cách xứ Nghệ không dễ trộn lẫn!Hà Tĩnh là vùng đất mà tinh thần hiếu học đã trở thành truyền thống. Nơi có những nghĩa cử khuyến học cao cả trong lịch sử. Có những xã có học điền để nuôi người nghèo học giỏi. Có những dòng họ như họ Đinh, họ Nguyễn (Hương Sơn), họ Nguyễn (Tiên Điền – Nghi Xuân), họ Phan ( Thạch Hà)… thời nào cũng có người đỗ đạt.Đây cũng là vùng đất giàu tinh thần nhân ái, tinh thần trượng nghĩa.Lòng kiên nhẫn, chí quật cường, xả thân vì nghĩa lớn đã trở thành nếp sống của mọi người. Từ xưa, các đấng tu mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian :“Làm trai cho đáng nên traiXuống đông đông tỉnh, lên đoài đoài yên”Cho đến lời thơ của Nguyễn Công Trứ:“Làm trai đứng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sông”Dường như chí anh hùng đã trở thành lý tưởng xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn. Tiết tháo nhà Nho đất Hồng Lam thời nào cũng sáng! Tên tuổi của Nguyễn Du, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Thiếp,…mãi còn in những dấu son trong tâm hồn nhiều thế hệ.Nhân tài tự cổ đa hào kiệtVăn vật như kim tất đại đồngCon người Hà Tĩnh có những nét văn hóa không dễ phai nhạt theo thời gian!Căm phẫn, yêu thương đều dữ dội. Dũng cảm mà vị tha, bi tráng nhưng cũng rất trào lộng.Thời đại nào cũng sản sinh ra những con người mang dấu ấn của thời đại đó. Hà Tĩnh là mảnh đất sinh ra nhiều người con mưu trí gan góc, nhiều tài năng kiệt xuất trên đủ mọi lĩnh vực. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Hà Tĩnh vẫn anh dũng tiến lên phía trước, vượt qua mọi trở ngại của quân thù, giữ vững nền độc lập cho quê hương:Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trướcNọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên.Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi.Tinh thần tự cường ấy là nét đẹp của người dân quê tôi, của mảnh đất địa linh nhân kiệt này. Tên tuổi của các bậc anh hùng: Phan Đình Phùng, Lý Tự Trọng, 10 cô gái thanh niên xung phong,… cùng những địa danh lịch sử: núi Nài, ngã ba Đồng Lộc,… mãi sáng ngời trong trang sử hào hùng dân tộc. Tự hào quá đi thôi!Thiên nhiên nghiệt ngã, chinh chiến liên miên, con người Hà Tĩnh có một cảm quan thẩm mĩ chân thật, hài hòa trọng thực tế, hữu dụng, ít xa hoa, bay bướm.Hà Tĩnh là nơi có nhiều lễ hội, phong tục ghi lại và ngợi ca cuộc sống lao động. Nhiều đền đài, di tích gắn với những sự tích, kể lại một câu chuyện cổ, gắn bó với truyền thuyết dân gian. Truyền thống văn học dân gian, đặc biệt là hát ví hát dặm, chuyện trạng,… đã làm cho nền văn hóa Hà Tĩnh có bản sắc riêng. Đã bao đời nguồn sữa này nuôi dưỡng nhiều nhà văn, thi sĩ vào đời, trưởng thành và bất tử.Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước trên đà hội nhập, Hà Tĩnh được cả nước cũng như bạn bè quốc tế biết đến. Các thương hiệu nổi tiếng như cu đơ, nước mắm Cẩm Nhượng, bánh gai Đức Thọ, Rượu nếp Can Lộc,… cùng những làng nghề làm nón, dệt vải, mộc Thái Yên,…được nâng cao và mở rộng.Chiến tranh đã lùi xa, Hà Tĩnh ngày càng đổi mới, quá trình đô thị hóa ngày một đi lên. Hà Tĩnh của bây giờ đang ngày càng phát triển, con người Hà Tĩnh ngày càng hiện đại hơn. Thật sự bất ngờ về sự phát triển nhanh chóng của quê hương mình. Với chợ tỉnh nhộn nhịp tấp nập người bán, người mua. Với con đường cao tốc dài vun vút, ánh đèn điện sáng trưng. Với những con đường nối vào tận làng xóm......Hà Tĩnh tuy không phát triển lắm về kinh tế vật chất nhưng lại có một sức sống tinh thần mãnh liệt.Vì một ngày mai tươi sáng, quê hương chúng ta cần nhiều hơn những người con ưu tú, góp phần dựng xây mảnh đất thân thương xứng đáng như lời Gs. Nguyễn Đổng Chi đã từng nói: “Hà Tĩnh là một trong ba vùng văn hóa lớn của Việt Nam, sau Thăng Long – Hà Nội và Huế”…Thưở nhỏ, quê hương là cái gì đó cao siêu, trừu tượng và xa vời với tôi lắm. Đi học cô giáo bảo quê hương là những gì thân thiết nhất! Tôi nghĩ quê hương chính là mẹ, là bố, là ông, là bà…Lớn thêm chút nữa tôi được nghe bài hát “Mẹ em chỉ có một trên đời” thì tôi càng chắc chắn quê hương chính là mẹ vì người ta vẫn nói:“ Quê hương mỗi người chỉ một”Nhưng rồi hai tiếng “Quê hương” lớn dần trong tôi, lớn theo năm tháng, theo những bước chân trên mảnh đất quê hương và lớn dần theo cách nghĩ của một con bé không còn chỉ biết nằm mãi trong lòng mẹ. Nhưng trong hai tiếng quê hương tôi vẫn có mẹ, có ba, có cả ông bà.Quên làm sao được những kỉ niệm tuổi thơ đầm ấm bên lũy tre đầu làng? Những buổi chiều tà thả diều, đuổi bướm bắt ve hay những hôm cùng lũ trẻ chăn trâu trộm lạc bẻ ngô vùi vào đống tro đang cháy dở mà ăn ngon lành. Tất cả hiện lên thật rõ nét và sinh động như chỉ mới vừa hôm qua vậy.Quê hương là động lực thúc đẩy, giúp ta vững bước trên những chặng đường dài. Đâu đó, nơi góc khuất tâm hồn vẫn còn cất giữ bao kỉ niệm để mỗi khi lại lôi ra mà chiêm nghiệm, xoa dịu nỗi lòng sau những mệt mỏi của cuộc sống thường ngày bộn bề công việc. Và ắt hẳn như nhà thơ Đỗ Tring Quân đã từng nói: 

Quê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương nếu ai không nhớSẽ không lớn nổi thành người.

Bình luận (2)
PT
Xem chi tiết
CC
Xem chi tiết
H24
17 tháng 12 2021 lúc 22:49

TK:

Thấm thoát thời gian trôi qua lặng lẽ, tôi nhận ra mùa thu đã qua và thay vào đóc là một mùa đong giá lạnh, tôi bước xuống giường và đôi bàn chân lạnh buốt. Bất chợt mẹ tôi bảo: "Hôm nay, trời lạnh con mặc áo đồng phục vào cho ấm”. Nhìn chiếc áo tôi thấy chiếc áo rất đẹp bởi lẽ nó cò màu xanh thẫm, mà màu xanh thẫm là màu mà tôi thích nhất.

Chiếc áo đòng phục của tôi có hai màu phần trên là màu trắng, phần dưới là màu xanh thẫm. Vải áo mền mại, mặc chiếc áo lên tôi rất thấy tiện cho các hoạt đọng của trường lớp. Áo có hai lớp lên mặc rất ấm. Chiếc áo đòng phục của tôi, phần dưới áo có hai túi chéo có viền xanh nổi bật trên nền vải màu trắng. Ở trong áo được bọc bởi lớp vải li –long.

Có màu xẫm để giữ sạch sẽ, nách áo rộng, tay áo không quá dài nên đủ đẻ mặc một chiếc áo len ở bên trong. Phía bên tay trái của áo có gắn phù hiệu của trường. Mỗi khi lấy chiếc áo ra khỏi tủ tôi rất hãnh diện vì mình là học sinh của trường THCS. Trên mác có hình hai bông lúa cùng với hình ảnh quyển vở và ngọn đuốc thể hiện ánh sáng niềm tin, tri thức, khoa học và sự phát triển của nông nghiệp. Đưa tri thức công nghệ hiện đại vào trong nông nghiệp. Tuy đơn giản nhưng phù hiệu là những lời súc tích, ý nghĩa nhất của trường dành cho chúng ta, mong chúng ta sẽ thành công trên con đường học tập. Ngoài ra tôi còn dành một chút thời gian đẻ tìm hiểu về nguồn gốc của chiếc áo đồng phục này và tôi tìm hiểu được rằng chiếc áo đồng phục này được sản xuất từ công ti may. Một việc nữa mà tôi phải phủ nhận rằng chiếc áo đồng phục mùa đông này giảm sự phân biệt giàu nghèo, đồng phục làm giảm chi tiêu tài chính, là cách giúp gia đình giảm chi phí cho quần áo đi học. "Nhưng làm thế nào đẻ quần áo sử dụng được lâu nhỉ.” Chúng ta không lên dùng nước nóng đẻ giặt, không ngâm áo với quần áo sẫm màu, áo giặt xong phải phơi thẳng ra và cuối cùng là không được là áo quá lâu để áo không bị hỏng.

 

Nhờ có chiếc áo đồng phục mùa đong mà chúng ta có chiếc áo ấm để mặc đến trường trong những ngày thời tiết giá lạnh. Nó luôn là người bạn thân gắn bó với chúng ta trong suốt quá trình mà chúng ta đi học, tôi sẽ coi nó như mội người bạn và tôi sẽ giữ gìn bảo quản nó mội cách cẩn thận.

Bình luận (0)
NT
Xem chi tiết
DL
22 tháng 2 2022 lúc 22:42

tk:

Từ ngã tư thị xã Đồng Xoài, du khách đi theo Quốc lộ 741 hướng Phước Long chừng 50 km sẽ đến núi Bà Rá. Núi Bà Rá cao 732 m, thuộc huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước. Ngọn núi được đồng bào dân tộc S’tiêng gọi với cái tên thành kính là “Bơnom Brah”, có nghĩa là “ngọn núi thần”.

Đường lên đỉnh Bà Rá trước đây rất hiểm trở, len lỏi qua những khu rừng nguyên sinh dày đặc, dốc đá cheo leo. Bây giờ, đường đã được mở rộng, lát đá thông thoáng. Từ đồi Bằng Lăng, du khách leo khoảng hơn 1.760 bậc tam cấp là lên đến đỉnh. Dọc đường lên núi. Tham quan khung cảnh trên đỉnh Bà Rá sẽ cho du khách cảm giác lâng lâng với nhiều ấn tượng khó quên.

Núi Bà Rá cách thị trấn Thác Mơ, huyện Phước Long khoảng 5 km. Xe khách, xe máy có thể chạy lên đồi Bằng Lăng nằm ở khoảng 1/3 độ cao so với đỉnh Bà Rá. Đường trải nhựa, quanh co khá dốc, hai bên là rừng rậm, thỉnh thoảng có những lạch nước nhỏ chảy tràn qua lộ… Tại đồi Bằng Lăng, dựa vào vách núi có một nhà bia tưởng niệm trang trọng, ghi công các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh.

Núi Bà Rá trong chiến tranh là căn cứ cách mạng, là chiến trường vô cùng ác liệt. Năm 1925, Pháp cho xây tại chân núi Bà Rá một nhà tù lớn để giam cầm chính trị phạm. Bên sườn núi phía tây là nơi đội công tác cách mạng núi Bà Rá từng bám trụ và gây nhiều nỗi kinh hoàng cho địch. Vào lúc 18 giờ ngày 2-1-1974, quân cách mạng đã đánh chiếm núi Bà Rá và sau đó giải phóng thị xã Phước Long vào ngày 6-1-1975.

Nếu du khách thích khám phá và có sức khỏe thì nên đi bộ theo những lối mòn lên núi. Leo núi Bà Rá sẽ cho bạn nhiều cảm xúc và sự hưng phấn. Nên khởi hành lên núi từ 9 giờ sáng, lúc ấy sương mù đã tan, du khách có thể thưởng thức được toàn cảnh quan chung quanh ngọn núi kỳ vĩ này. Từ nhà bia đi lên núi chừng 30 m có một cây bằng lăng cổ thụ cao gần 50 m, chiều rộng chừng 10 người ôm chưa giáp tay, tàng lá xanh um, dáng vẻ thâm nghiêm.

 

Để leo núi và có thể nghỉ đêm trên đỉnh Bà Rá, du khách nên trang bị gọn nhẹ với giày vải đi rừng, áo gió và ba lô đựng những vật dụng cá nhân cần thiết cho một chuyến du khảo. Lương thực có thể mang theo như bánh mì, mì gói, thịt cá hộp, nước suối… Nếu không thích leo núi, du khách có thể lên đỉnh bằng cáp treo (được đưa vào sử dụng từ tháng 3-2010). Ngồi trên ca-bin cáp treo ngắm không gian bao la dưới chân núi cũng là cảm giác vô cùng thú vị.

Bây giờ, đường nên núi Bà Rá đã được mở rộng, lát đá thông thoáng. Dọc đường lên núi, cảnh vật hoang sơ, lãng mạn với những rừng trúc, lồ ô xen kẽ với bằng lăng, sao, dầu lông và rừng cây bụi như mua, sim, trâm ổi. Dây leo bò bao phủ, chằng chịt khắp nơi. Thỉnh thoảng du khách nghe được tiếng chim chìa vôi, họa mi, chích chòe hót ríu rít, vang lên tràng dài và tiếng cu rừng gáy vọng phía triền núi xa. Không khí trên núi rất mát mẻ, trong lành.

 

Đứng trên đỉnh Bà Rá, ta có thể quan sát một khu vực rộng lớn chung quanh bạt ngàn một màu xanh bất tận. Hồ Thác Mơ mênh mông có diện tích trên 12.000 ha như một mặt gương khổng lồ, phẳng lặng và đẹp như tranh vẽ. Đây là nơi cung cấp nước cho Nhà máy thủy điện Thác Mơ hiện đại. Trên đỉnh núi Bà Rá có tháp ăng ten của Đài Phát thanh truyền hình Bình Phước, cao 48 m. Ở đây còn có Miếu Bà là nơi hành hương, cúng viếng của nhiều khách thập phương. Thời chiến tranh, quân đội Mỹ đã xây dựng trên đỉnh Bà Rá một căn cứ quân sự khá hiện đại, dấu tích bây giờ vẫn còn.

Nếu lên núi vào những đêm có trăng (từ mồng 10 đến 20 âm lịch), du khách sẽ thấy mình như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh với trăng ngàn, gió núi đẹp hoang sơ và lãng mạn. Khi trời tối hẳn, du khách có thể cùng bạn bè ra sân trước Miếu Bà ngồi trên những tảng đá, ngắm nhìn vầng trăng huyền ảo cùng những ánh đèn lung linh của thị trấn Thác Mơ dưới chân núi. Và, lửa trại được đốt lên, với một cây đàn ghi-ta, bạn đã có thể trải lòng hòa mình với thiên nhiên, bè bạn…

Bình luận (3)
 minh nguyet đã xóa
DL
22 tháng 2 2022 lúc 22:56

tk:

Núi Bà Rá nằm trên địa phận thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước giữa một vùng đồi thấp nhô lên một ngọn núi cao, cây cối xanh tươi, rậm rạp, tạo cho núi Bà Rá một vẻ hùng vĩ. Đồng bào S’tiêng gọi ngọn núi này với cái tên đầy thành kính: “Bơnom Brah” có nghĩa là “ngọn núi Thần”.
Do địa hình hiểm trở của rừng núi, núi Bà Rá đã mang trên mình nhiều chiến tích anh dũng kiên cường. Bên sườn núi phía Tây có hang Dơi, hang Cây Sung, nơi đây đội công tác núi Bà Rá đã từng bám trụ và lập nhiều chiến công, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, núi Bà Rá còn là căn cứ địa cách mạng vững chắc.
Để lên đỉnh núi, với độ cao 723m so với mực nước biển du khách phải chia cuộc hành trình thành hai đoạn: Từ chân núi lên đồi Bằng Lăng nằm ở khoảng 1/5 độ cao so với đỉnh, đường đã được trải nhựa, xe gắn máy và xe ô tô có thể chạy lên đến đây. Tại đồi Bằng Lăng có nhà bia tưởng niệm ghi nhớ công lao của các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh qua 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Từ đồi Bằng Lăng, bước lên 1.767 bậc tam cấp bằng đá để lên đến đỉnh, đường lên núi khá đẹp, được bao phủ bởi một màu xanh nào là trúc, lồ ô, đặc biệt hai bên đường đi có nhiều cổ thụ ướm chừng vài trăm năm tuổi. Đứng trên đỉnh núi Bà Rá, có thể nhìn thấy cả một vùng thị xã Phước Long rộng lớn, với hồ thủy điện Thác Mơ rộng 12.000ha.Vào tháng 6/2008 công trình cáp treo Bà Rá được khởi công xây dựng, sau gần 2 năm thi công đồng bộ với tinh thần, trách nhiệm cao của các cấp lãnh đạo cũng như chủ đầu tư (Công ty Xây dựng - Tư vấn và Đầu tư phát triển Bình Phước), đến nay đã hoàn tất và đưa vào khai thác sử dụng. Công trình với diện tích quy hoạch 115.490 m2, với tổng số vốn đầu tư 76,7 tỷ đồng. Cáp treo có chiều dài 2.063 m, gồm 32 cabin, chia làm 8 nhóm, mỗi nhóm 4 cabin, các cabin làm bằng khung vỏ hợp kim nhôm, có 6 chỗ ngồi.
Việc công trình Cáp treo Bà Rá được khánh thành và đi vào hoạt động góp phần tạo ra cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch và khai thác tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh nhà; đồng thời đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu cho Ngân sách nhà nước.
Ngày nay, núi Bà Rá không chỉ biết đến với dấu tích lịch sử hào hùng, nơi du lịch sinh thái tiềm năng của Bình Phước mà còn được biết đến với giải việt dã truyền thống vào ngày 6/1 hàng năm. Giải Việt dã Chinh phục đỉnh cao Bà Rá không chỉ là giải đấu nằm trong hệ thống thi đấu quốc gia mà còn là giải đấu mang tầm quốc tế, hàng năm quy mô của giải ngày càng rộng lớn thu hút nhiều vận động viên đến từ các quốc gia lân cận như CHDCND Lào, Vương quốc Camphuchia, Thái Lan, qua đó thắt chặt tinh thần hữu nghị, giao lưu học hỏi giữa các quốc gia lân cận.
Đến với Bình Phước khi tham quan khu du lịch sinh thái núi Bà Rá du khách có thể hòa mình vào không khí thiên nhiên, cảm nhận luồn gió mát lạnh từ hồ Thác Mơ thổi vào, được nghỉ chân tại Khách sạn 3 sao đầu tiên của Bình Phước - Khách sạn Mỹ Lệ - Thị xã Phước Long với nhiều tiện nghi sang trọng, giá thanh toán hợp lý, chắc chắn người yêu thích thiên nhiên sẽ khó thể bỏ qua.

Bình luận (2)
LM
Xem chi tiết
H24
15 tháng 1 2018 lúc 18:17

Mở bài:
Giới thiệu chung về con vật
Thân bài:
– Nguồn gốc, các giống, loài
– Các đặc điểm nổi bật về hình dáng bên ngoài
– Hình dáng, chân, tai, mắt, lông…
– Các đặc điểm nổi bật về tập tính, tính nết
– Quạn hệ, vai trò, lợi ích, giá trị của con vật đối với đơì sống của con người
Kết bài:
Khẳng định vai trò, vị trí của con vật trong đời sống con người; tình cảm của con người với vật nuôi

Bình luận (0)
BH
15 tháng 1 2018 lúc 18:41

Mở bài:
Giới thiệu chung về con vật
Thân bài:
– Nguồn gốc, các giống, loài
– Các đặc điểm nổi bật về hình dáng bên ngoài
– Hình dáng, chân, tai, mắt, lông…
– Các đặc điểm nổi bật về tập tính, tính nết
– Quạn hệ, vai trò, lợi ích, giá trị của con vật đối với đơì sống của con người
Kết bài:
Khẳng định vai trò, vị trí của con vật trong đời sống con người; tình cảm của con người với vật nuôi

Bình luận (0)
NN
15 tháng 1 2018 lúc 17:34

Con voi là đối tượng của miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau trong văn hóa đại chúng, trong thần thoại và biểu tượng đặc biệt là ở châu Á và châu Phi nơi có sự hiện diện của chúng. Kể từ thời kỳ đồ đá, con voi đã được khắc họa bởi bức tranh khắc đá cổ trong hang động nghệ thuật. Theo thời gian, chúng được mô tả trong nghệ thuật trong các hình thức khác nhau, bao gồm cả hội họa, tác phẩm điêu khắc, âm nhạc, phim ảnh, và thậm chí cả kiến trúc.

Điểm chung của các nền văn hóa là sự mô tả đều có ý nghĩa yêu mến và tôn kính đối với voi, đặc biệt là trong tôn giáo nhất là ở các vùng Ấn Độ va Đông Nam Á. Voi còn được biết đến với sức mạnh của chúng trong chiến tranh và cũng là con vật gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của dân cư bản địa, một số còn sử dụng trong việc hành hình (voi giày). Voi từng là đối tượng bị săn bắt lấy ngà của thực dân phương Tây.

Voi đã thuần hóa là con vật nuôi có ích và rất thân thiện với con người. Từ hàng nghìn năm nay, những con voi đã được thuần hóa để làm những công việc như kéo gỗ, kéo cày, kéo cây và để biểu diễn trong các lễ hội. Voi là động vật thông minh nên có thể học và ghi nhớ rất nhanh các kỹ năng đơn giản. Người dân vùng Đông Á thường dùng voi để kéo các cây gỗ lớn mà xe ủi hoặc xe kéo không làm được. Người châu Á cũng dùng voi để làm loài vật chiến đấu (voi trận) như Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Campuchia...... Người Việt từ lâu đã biết sử dụng voi phục vụ cho đời sống, đặc biệt là trong việc quân sự. Từ người Việt, Chăm, Khơme cho đến các tộc người ở Tây Nguyên đều có nhiều huyền thoại, truyện cổ về loài voi.

Voi đóng vai trò quan trọng trong văn hóa của khu vực Nam Á và Đông Nam Á. Chúng xuất hiện trong các câu truyện thần thoại ở Jataka và Panchatantra. Trong tôn giáo, chúng có vai trò thiêng liêng và nhiều đền thờ có thờ các tượng voi. Trong đạo Hindu, đầu của thần Ganesha là một chiếc đầu voi. Chúng được trang điểm đẹp đẽ để sử dụng trong các đám rước lớn ở Kerala. Trước đây chúng cũng được sử dụng trong chiến tranh như những đội tượng binh ở Ấn Độ, Việt Nam v.v. Voi còn là biểu tượng quốc gia, là linh vật (quốc thú) của Lào (còn gọi là Vạn Tượng hay đất nước Triệu voi) là hình tượng nghệ thuật phổ biến và đặc trưng của hai quốc gia Lào và Thái Lan.

Voi trắng (còn gọi là voi bạch tạng) là một dạng voi hiếm, nhưng không phải là một loài riêng biệt. Đối với một số vương quốc ở Đông Nam Á như Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia, sở hữu một con voi trắng là điềm vương triều đang hùng mạnh, vương quốc thái bình thịnh vượng. Voi trắng có liên hệ với vũ trụ quan Hindu, núi Indra, vua của các vị thần Vedic là Ảiravata, là một con voi trắng. Voi trắng cũng có liên hệ phức tạp với vũ trụ quan Phật giáo, ngọn núi của Sakka (vị thần Phật giáo và người cai trị thiên đường Tavatimsa) là một con voi trắng ba đầu có tên Airavata. Voi bạch tạng có trong tự nhiên và thường có màu hơi nâu đỏ hay hồng. Trong văn hóa các nước nói tiếng Anh, voi trắng ám chỉ tài sản mà chi phí duy trì vượt quá giá trị mang lại. Quan niệm này xuất phát từ câu chuyện các vị vua Thái Lan tặng voi trắng cho các quan bị thất sủng. Món quà mang ý nghĩa tốt đẹp nhưng cũng là lời nguyền rủa vì người nhận phải chăm sóc một con vật rất tốn kém mà không được phép cho đi hay sử dụng vào việc gì.

Voi trắng đã được tôn kính trong nhiều thế kỷ ở các nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan và Lào. Những con voi có màu sắc đặc biệt này được xem là dấu hiệu thiêng liêng của sự may mắn, bình an và sự giàu có trong Phật giáo Miến Điện, con voi trắng được giữ bởi những người đứng đầu và được coi là biểu tượng của quyền lực hoàng gia và sự thịnh vượng. Nhiều người ở Miến Điện vẫn tin rằng con voi trắng chỉ xuất hiện ở những nơi mà việc thực hành Phật giáo phát triển và nhà cầm quyền quản lý công bằng

Voi chiến được sử dụng đầu tiên ở Ấn Độ, sau phép dùng voi chiến lan sang vùng Đông Nam Á và Trung Đông tới tận Địa Trung Hải. Ở phương Đông đến thế kỷ 19 khi súng đại bác xuất hiện thì voi chiến mới bị vô hiệu hóa. Loài voi từ đó chủ yếu chỉ dùng làm phương tiện chuyên chở, kéo gỗ v.v. Trong những bài tán trong kinh Vệ Đà thời văn minh Ấn Độ cổ đại có niên đại vào khoảng một ngàn đến hai ngàn năm TCN có nhắc đến voi dùng là phương tiện vận chuyển. Trong đó có chuyện về Indra và con voi thần màu trắng, Airavata. Tập truyện Mahabharata, có niên đại khoảng thế kỉ 8 TCN và Ramayana (thế kỉ thứ 4 TCN) cũng ghi rằng voi được con người nuôi và dùng làm con vật chuyên chở nhưng không ghi gì về tượng binh hoặc việc dùng voi trong chiến trận.Thời kỳ cổ đại, văn minh Ấn Độ đề cao giá trị của loài voi trong chiến tranh. Họ ví rằng "Quân đội mà không có tượng binh thật đáng coi thường, khác gì rừng không có sư tử, nước không có vua, hay lòng can đảm mà đánh bằng tay không".

Voi giày cũng là một hình phạt có từ hàng ngàn năm ở các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, đặc biệt tại Ấn Độ. Voi được sử dụng là voi châu Á được huấn luyện thuần thục. Hình phạt này áp dụng cho các tử tội, thường là phạm tội nặng với triều đình hoặc được sử dụng như một cách thức trả thù của vua đối với những người ủng hộ phe chống lại vua. Nạn nhân bị hành quyết thường bị voi dùng chân dẫm lên cơ thể, dùng vòi cuốn đưa lên cao và quật xuống đất. Người ta có thể điều khiển voi làm cho nạn nhân chết nhanh hoặc chết từ từ để hành hạ. Không chỉ có các nước châu Á áp dụng hình phạt này, La Mã và Carthage cũng áp dụng nó, nhưng là áp dụng cho việc xử tử đồng loạt một số đông tù nhân.Trong văn hóa Ấn Độ giáo thì con voi là hình tượng phổ biến. Voi là biểu tượng của vật linh trong Ấn Độ giáo vì nó là vật cưỡi của thần Inđra hay còn gọi là Thần Sấm sét - Thần Chiến tranh hay Thần Hộ mệnh). Hình tượng voi trong kiến trúc được thể hiện rất phong phú, sinh động với nhiều tư thế khác nhau, mang ý nghĩa tôn giáo, voi thường được khắc tạc cùng với thần Inđra. Người Chăm ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ thường khắc tạc voi với nhiều loại hình như tượng, phù điêu, đất nung trang trí… Trong thánh ca tiếng Phạn của người Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á, con voi là động vật duy nhất có tay, đây là biểu tượng của sự cho đi và nhận lại. Một nguyên nhân nữa khiến voi là biểu tượng của sự giàu có và may mắn là bởi chỉ các gia điình giàu có, quý tộc ở Ấn Độ xưa mới có voi. Voi chính là một biểu tượng của giai cấp, phân biệt giàu nghèo trong xã hội

Trong Ấn Độ giáo voi ở một dạng được thần thánh hóa có tên gọi là Ganesa vị thần đầu voi mình người được tôn sùng phổ biến trên nhiều lĩnh vực, có nhiều giai thoại về gốc tích của vị thần toàn năng này. Ganesa là vị thần tùy hành của thần Siva trên núi Kailasa, do thần Siva sáng tạo ra từ ngọn lửa thần trên trán của mình biến thành. Ganesa do Parvatti sáng tạo ra, do có sự cố nên cái đầu rụng mất, thần Visnu thương hại chắp cho một cái đầu voi, cho nên thần được thể hiện mình người đầu voi. Người ta coi Ganesa là vị phúc thần ban nhiều điều tốt lành, vì vậy vị thần này còn được nhân dân nhiều nơi ở các nước châu Á tôn thờ như Giava, Tây Tạng, Ấn Độ, Nhật Bản, Chăm… Hình tượng voi còn được thể hiện dưới hình dạng một vị thần khác với tên gọi là Gajasimha vị thần đầu voi mình sư tử. Đây là loài thú lưỡng hợp có sức mạnh vô song, kết hợp sức mạnh của sư tử (hóa thân của thần Visnu) và voi của thần Inđra.

Đặc tính chính của voi là sức mạnh và tính kiên định của nó. Vì vậy nó trở thành biểu tượng của sức mạnh vật lý và tâm thức, cũng như trách nhiệm và tính chân chất. Trong thần thoại Ấn Độ, chúng ta nghe nói về những con voi bay và voi Airavata là con voi trắng mà nó trở thành vật cỡi của Thần Indra và xuất hiện từ nơi khuấy biển sửa. Do đó voi trắng được xem là có sức mạnh đặc biệt có thể tạo nên mưa. Trong xã hội Ấn Độ, voi được xem như vật mang đến điều tốt lành và thịnh vượng. Các vị vua sở hữu chúng và sử dụng chúng trong chiến tranh. Trong nghệ thuật tranh tượng Ấn giáo, vị thần đầu voi Gangpati hay Ganesh. Ở khía cạnh khác, tượng trưng cho phương diện thế tục của sức mạnh ấy, voi bị những vị thần khác như Mahakala, Vajra Bhairava dẫm lên trên.

Trong Phật giáo, voi là một biểu tượng của sức mạnh tâm thức. Vào khởi đầu của việc tu tập, tâm thức chưa được kiểm soát được tượng trưng bằng một con voi xám có thể chạy hoang bất cứ lúc nào và phá huỷ mọi thứ trên đường. Sau khi thực hành pháp và tu tập, tâm bây giờ đã được kiểm soát, lại được tượng trưng bằng một con voi trắng mạnh mẽ và hùng dũng, có thể đi đến bất cứ nơi đâu nó muốn và huỷ diệt tất cả những chướng ngại ở trên đường. Voi trắng sáu ngà còn là vật cưỡi của Phổ Hiền bồ tát (Samantabhadra) tượng trưng cho trí tuệ chiến thắng sáu giác quan. Vì voi là con vật khôn nhất trong các loài thú nên theo truyền thuyết, Phật Thích Ca khi nhập vào trong bụng mẫu hậu Sirimahamaya qua hình dáng một con bạch tượng, ám chỉ ngài là một bậc hiền giả giáng sinh.[9]

Phật Thích Ca Mâu Ni trong những tiền kiếp của mình đã sinh làm voi. Và vào kiếp sau cùng của mình, từ cõi trời Đâu Suất, đã nhập vào thai tạng của mẹ mình trong hình thức một con voi trắng. Trong nghi lễ cúng mandala (Mạn Đà La), người ta dâng lên Đức Phật con voi quý, với sức mạnh của một ngàn con voi và nó có thể đi vòng quanh vũ trụ ba lần một ngày. Ngà của voi cũng là một trong bảy biểu tượng của vua chúa. Voi là phương tiện đi lại của A Súc Bệ Phật (Aksobhya) và nữ thần Balabadra. Voi cũng xuất hiện như một kẻ canh gác các ngôi đền và cả bảo vệ Đức Phật.

Con voi cũng là loài vật gắn bó với nhiều ngôi chùa ở Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia...Tượng voi và phù điêu voi có mặt hầu hết ở các ngôi chùa của người Khơme ở Nam Bộ. Chùa của người Việt từ Bắc, Trung, Nam đều có hình ảnh của con voi. Các chùa chiền ở Việt Nam và Đông Nam Á đều có tượng voi trang trí làm đẹp cho cảnh quan của mỗi ngôi chùa. Trong chùa voi thường được bố trí chầu ở sân, tiền sảnh, hay cổng chùa, voi đặt ở chính điện để thọ tôn kính. Ở Thái Lan, hình tượng con voi tượng trưng cho đất.Tranh màu trên tượng còn được vẽ với quy mô lớn miêu tả cảnh đức Phật thuyết pháp, cảnh niết bàn hay thể hiện cảnh sinh hoạt của con người, phật tử với hình ảnh của con voi. Voi xuất hiện nhiều không những vì mục đích làm đẹp, trang trí cảnh quan mà còn gắn với Phật tích.

Voi đã trở thành người bạn thân thiết biểu tượng của sự giàu sang sung túc, là bản sắc văn hoá độc đáo của đồng bào các dân tộc bản địa Tây Nguyên, voi là hiện thân của sức mạnh và sự giàu có của các vị tù trưởng xưa. Ở đây người ta quan niệm rằng con voi là động vật đứng đầu trong các loài thú rừng. Từ trước đến nay chỉ có một loài vật tượng trưng cho quyền uy, sức mạnh vật chất và tinh thần của mỗi dân tộc, mỗi buôn làng hay mọi người, đó là loài voi

Con voi đã đi vào đời sống và trở thành biểu tượng văn hoá của cao nguyên Đắc Lắc. Hình tượng con voi cũng đi vào sử thi, thần thoại như chuyện về thần Nguăch, chuyện voi bảy ngà, voi biết bay, sự tích con voi, nàng ngà voi, lấy chồng voi... Người dân ở Tây Nguyên trong tạo hình và kiến trúc dân gian con voi được chạm khắc trên xà nhà, cầu thang, đồ trang sức, công cụ lao động, trên thổ cẩm và cả trên nhà mồ. Ngà voi là thứ trang sức quý giá của các cô gái Tây Nguyên. Hình tượng con voi cũng đi vào các lễ hội, như lễ hội cúng bến nước, cúng sức khoẻ, ăn trâu hiến thần, mừng mùa hàng năm của cộng đồng. Hình tượng con voi được ghi trong trống đồng Tây Nguyên, trên cột lớn nhà dài hay tượng nhà mồ của các gia đình có thế lực.

Voi trong đời sống của các cộng đồng dân tộc dẫn rõ rằng không được đánh đập, nhục mạ voi. Khi voi mệt mỏi, ốm đau phải được chăm sóc, nghỉ ngơi và không được bóc lột sức lao động của voi quá mức. Phải ứng xử với voi như một thành viên trong cộng đồng… Người đồng bào M'Nông đã đưa vào Luật tục bảo vệ voi cho cộng đồng buôn làng, nó hình như cũng là tiếng nói chung cho cộng đồng trên cao Nguyên. Người dân Tây Nguyên khi vào mùa đều tổ chức các lễ hội đua voi, để vào mùa mới. Các dân tộc M'Nông, Êđê, Gia Rai. Lễ hội đua voi ngày nay cũng đã tổ chức khá ít, vì nhiều nguyên nhân như: Không gian vui chơi, lượng voi ít, quản tượng chạy theo thị trường. Thợ săn voi không có nghề, các chàng trai săn voi Buôn Đôn giờ ngồi trên lưng voi bị xích, chỉ huy nó đi một trăm mét tới, quay lại, đi một trăm mét về chỗ cũ.

Voi còn được miêu tả đến trong văn hóa đại chúng qua hình tượng chú voi biết bay Dumbo, là một phim hoạt hình sản xuất bởi Disney dựa vào truyện cùng tên của Helen Aberson và Harold Perl.

Voi còn là linh vật trong kỳ Seagame 2009 tại Lào, Một cặp voi trắng. Hai con voi trắng mặc trang phục truyền thống của Lào. Con voi đực được đặt tên con voi Champa và con voi cái có tên Champi. Hai con voi trắng tượng trưng Lào như nó được gọi là vương quốc Lan Xang trong thời cổ đại, trong đó có nghĩa là "vương quốc triệu voi". Các linh vật được mô tả như đang vui vẻ, là một phần quan trọng trong việc thi đấu thể thao. Tại Đại hội thể thao châu Á năm 2005 tại Thái Lan có Chú voi xanh tên Hey và vàng tên Há là linh vật, cả hai là đại diện cho sự náo nhiệt, vui tươi và thư thái, do đó phản ánh bản chất tốt đẹp của AIGs 1.

Bình luận (0)
TA
Xem chi tiết