Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Cây bút thần.
Bài làm.........
Viết một đoạn văn phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Mã Lương trong truyện cổ tích “Cây bút thần”.
Thông qua nhân vật Mã Lương trong truyện cổ tích “Cây bút thần”, dân gian đã thể hiện quan niệm về công lí xã hội, về mục đích của tài năng nghệ thuật là cứu giúp con người. Mã Lương là em bé mồ côi nghèo khó nhưng đam mê vẽ tranh, em say mê theo đuổi ước mơ của mình. Vì hoàn cảnh nghèo khó nên em không có một chiếc bút lông. Mong muốn chính đáng của cậu bé đã thấu đến trời xanh và vị tiên hiền lành đã ban tặng em chiếc bút bằng vàng. Có cây bút, em không vẽ mình mà vẽ cho tất cả những người nghèo khổ trong làng. Em vẽ chiếc cày, chiếc đèn, thùng múc nước để giúp họ lao động chân chính và kiếm sống lương thiện. Nhưng những kẻ tham lam, độc ác như tên địa chủ hay tên vua xấu xa, chúng đều muốn Mã Lương phải vẽ ra tài sản cho mình. Tuy nhiên, cây bút thần trong tay tên vua độc ác chỉ vẽ ra núi đá, con mãng xà chứ không thể ra được châu báu, vàng bạc. Mã Lương nhất quyết không dùng cây bút để phục vụ mục đích tham lam của chúng mà tìm cách để trừng trị chúng, trừ hại cho dân cho nước. Tên địa chủ và nhà vua cuối cùng đã phải chết để trả giá cho sự tham lam vô độ. Còn Mã Lương hàng ngày em vẫn vẽ tranh bán để kiếm sống hoặc dùng cây bút giúp người nghèo khổ có công cụ lao động. Con người Mã Lương là tấm gương sáng để chúng ta học tập, không màng danh lợi, vinh hoa phú quý, không vì e sợ trước những thế lực đe dọa mà làm điều xấu xa. Cây bút thần trong tay Mã Lương đã có một sức mạnh thần kì, thể hiện ước mơ về công lí, về lẽ đời: ác giả ác báo, bọn phi nghĩa tàn ác nhất định sẽ bị trừng phạt. Cây bút thần kì diệu, là biểu tượng cho sức mạnh nhiệm màu về nghệ thuật. Nó ca ngợi sức mạnh của chính nghĩa, nói lên ước mơ của nhân dân trong cuộc đấu tranh diệt trừ ác độc, tham lam để vươn tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bài mẫu cho ai cần ! #No coppy
Đề bài : phát biểu cảm nghĩ về tinh thần / giá trị nhân đạo trong bài thơ :" Bánh trôi nước".
Bài làm
" Tinh thần nhân đạo" là 1 trg 2 dòng chảy xuyên suốt mạch nguồn của văn học . Nó bắt nguồn từ truyền thống : " Thương người như thể thương thân " của dân tộc VN ; nó chảy từ cội nguồn văn học dân gian đến văn học hiện đại .Trong chương trình Ngữ Văn 7 , giá trị nhân đạo trg bài thơ : " bánh trôi nc " đã để lại cho e ấn tượng sâu sắc .
"Tinh thần nhân đạo " là tinh thần nhân ái, là sự xót thương , lòng đồng cảm , là thái độ chở che , bênh vực cho những số phận con người bất hạnh.Trg văn học tinh thần nhân đạo đc biểu hiện 1 cách rất đa dạng và phg phú. Đó là sự xót thương , đồng cảm , chia sẻ vs những số phận đau khổ, là sự lên án , tố cáo những thế lực bất công , chà đạp lên quyền sống của con người , là ước mơ , khát vọng về 1 xã hội công bằng , tôn trọng phẩm giá của con người .
Ở thời trung đại , đặc biệt là vào giai đoạn cuối thì xã hội lúc bấy h đầy rối ren và loạn lạc; nhiều cây bút trung đại đã tập trung phản ánh bi kịch của con người, nhất là số phận của ng phụ nữ trg xã hội xưa.Góp mặt trg chủ đề này pk kể đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương với bài thơ : " Bánh trôi nc " . Bài thơ đc đặt theo thể thất ngôn tứ tuyệt , ra đời vào khoảng thế kỉ 19.Tinh thần nhân đạo trg tác phẩm là tiếng ca ngợi vẻ đẹp ng phụ nữ xưa , đồng cảm với thân phận và số phận của họ và lên án phê phán , tố cáo xã hội phong kiến bất công.
Trước hết, ở lớp nghĩa thứ nhất , tác giả đã miêu tả về chiếc bánh trôi nước . Chiếc bánh trôi nc đc lm từ bột nếp trắng , nhân đường đỏ, đc nặn hình tròn. Nếu bột nhiều nước thì bánh sẽ nháo , nát ; nếu bột ít nước thì bánh sẽ khô và rắn. Vì thế hình dạng và chất lượng bánh phụ thuộc vào tay ng nặn. Cần đun sôi nc để luộc bánh, bánh chín sẽ nổi lên còn bánh chx chín thì sẽ chìm. Nhưng dù rắn hay nát thì bánh vẫn giữ đc nhân đường đỏ bên trg .
Chiếc bánh trôi nc chính là hình ảnh ẩn dụ chỉ ng phụ nữ trg xã hội phg kiến xưa.
Đến vs tác phẩm , ta cảm nhận đc tinh thần nhân đạo thể hiện qua tiếng nói ca ngợi vẻ đẹp của ng phụ nữ xưa về hình thức :
"Thân e vừa trắng lại vừa tròn"
2 tiếng " thân e" đc sử dụng để mở đầu bài thơ. Đây là mô típ quen thuộc để bắt đầu những bài ca dao trong chủ đề: Những câu hát than thân để nói về số phận buồn tủi của ng phụ nữ xưa:" Thân e như trái bần trôi/ Gió dập sóng dồi bt tấp vào đâu". Nhưng ở bài thơ này, 2 tiếng " thân e " kết hợp vs cặp từ hô ứng "vừa..vừa.." nhằm khẳng định , ca ngợi vẻ đẹp của ng phụ nữ xưa : tròn trịa , trắng trẻo về ngoại hình, trg trắng, tròn đầy về tâm hồn.
Bài thơ còn ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của ng phụ nữ trg xã hội phg kiến đương thời:
" Mà e vẫn giữ tấm lòng son "
Quan hệ từ :"mà" đc đặt ở đầu câu thơ vừa để kết nối các câu thơ trong bài vừa để thể hiện tấm lòng của ng phụ nữ VN.Hình ảnh ẩn dụ :"tấm lòng son" khẳng định: dù thân phận chìm nổi lênh đênh , vị lệ vào tay kẻ khác họ vẫn giữ cho mk nhân cách, phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng trg trắng , son sắc , thủy chung. Ng phụ nữ xưa thật đẹp ng , đẹp nết , đáng đc trân trọng và hượng cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc.
Đọc tác phẩm, ta còn cảm nhận đc tinh thần nhân đạo hiên hữu trg tiếng nói đồng cảm , thương xót của tác giả cho số phận và thân phận của ng phụ nữ xưa:
"Bảy nổi ba chìm vs nc non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn "
thành ngữ : " ba chìm bảy nổi" đc tác giả khéo léo đổi thành :" bảy nổi ba chìm" vừa đặc tả trạng thái chiếc bánh trôi nc khi chín vừa diễn tả đc số phận chìm nổi , long đong, lận đận của ng phụ nữ trc dòng đời.Số phận chìm nổi ,thân phận thì rắn nát,thấp bé, "sướng-khổ, hạnh phúc hay bất hạnh" phụ thuộc vào " tay kẻ nặn ". "Tay kẻ nặn " là những ng chồng , ng cha, những thế lực có quyền có tiền trg xã hội phg kiến xưa, luôn định đoạt,đưa đẩy số phận và thân phận ng phụ nữ trg xã hội xưa.Họ ko có quyền tự quyết định cuộc đời mk , ko đc từ chủ, tự quyết định hạnh phúc cho mk.Cuộc đời của họ chịu thật nhiều những bi kịch , cay đắng , tủi nhục.
Chưa hết,"tinh thần nhân đạo " trg tác phẩm:"Bánh trôi nc" còn thể hiện ở tiếng nói lên án, phê phán, tố cáo xã hội phg kiến xưa.Từ việc miêu tả, diễn tả, tái hiện lại thân phận thấp bé kém tay , vị lệ vào tay kẻ khác và số phận bấp bênh , chìm nổi của ng phụ nữ xưa; tác giả đã giúp chúng ta hiểu hơn về xã hội xưa.Trg thời kì xã hội phg kiến VN, vai trò của ng phụ nữ ko đc đề cao và họ luôn bị coi thường , chà đạp.Cuộc đời họ trải qua vô vàn những cay đắng, bi thảm , buồn tủi , luôn bị xo đẩy bởi dòng đời và các thế lực phg kiến.Qua đó ta thấy xã hội xưa trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử và thật bất công, đáng bị căm ghét vè lên án , tố cáo.
Như vậy , tiếng nói nhân đạo ko chỉ phg phú về mặt nội dung mà còn đa dạng trg hình thức thể hiện .Đó có thể là tiếng nói tâm tình đc thể hiện sâu xa trg thể thơ thất ngôn tứ tuyệt . Ko những thế, trong bài thơ :"Bánh trôi nc " tác giả đã sử dụng triệt để thành công các biện pháp nghệ thuật : ẩn dụ, thành ngữ.Ngôn ngữ bình dị đã cho ta thấy cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:vừa trân trọng , vừa ca ngợi vẻ đẹp ng phụ nữ VN xưa , vừa cảm thương sâu sắc cho họ cũng như chính kiếp vợ lẽ của mk . Đòng thời, lên án phê phán xã hội phg kiến đương thời luôn chà đạp ng phụ nữ .
Như Diệp Tiến-nhà phê bình văn học từng vt : " THơ là tiếng lòng của ng nghệ sĩ", bài thơ "Bánh trôi nc " đã phản ánh tiếng nói nhân đạo ko chỉ của nữ sĩ HXH mà còn là tiếng nói nhân đạo-truyền thống của cả dân tộc VN ta.Tiếng nói ấy ngày nay vẫn đc giữ gìn và phát huy trg các tác phẩm như : " Sống Chết mặc bay " , " Cuộc chia tay của những con búp bê" hay " Thân e như trái bân trôi / Gió dập sg dồi bt tấp vào đâu".
Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng vt: "văn chương gây cho ta những tình cảm ta ko có , luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có ".Bài thơ "Bánh trôi nc" đã giúp e hiểu hơn cuộc đời cay đắng,thân phận và số phận ng phụ nữ xưa. Khơi gợi cho e lòng đồng cảm vs họ, ngưỡng mộ vẻ đẹp hoàn mĩ của họ và căm ghét xã hội xưa bất công.TRg cs ngày nay dù đã đc bình đẳng và tự chủ nhưng vẫn còn những ng phụ nữ có số phận bất hạnh chúng ta cần đồng cảm, giúp đỡ.Mỗi cta hãy lên tiếng vì quyền lơi ng phụ nữ, đối xử bình đẳng ko phân biệt giới tính ; lên án phê phán những gđ trọng nam khinh nữ, những kẻ coi thường , chà đạp ng phụ nữ.Là học sinh cần tích cực học tập , là đại diện cho phái nữ cần bảo vệ các bạn nữ trg lớp, đấu tranh vì quyền lợi bản thân , tố cáo những kẻ có hành vi sai trái vs phụ nữ để góp phần xây dựng xã hội công bằng đất nc giàu mạnh.
Tóm lại , tinh thần nhân đạo trg bài thơ " Bánh trôi nc " đã để lại cho e ấn tượng sâu sắc.Nó góp phần tôn vinh giá trị văn học và thành công của tác phẩm.Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy và bài thơ sẽ còn sống mãi trg lòng ng đọc,là ngọn đèn dẫn lỗi ta tới thành công.Chúng ta hãy giữ gìn và phát huy giá trị nhân đạo của tác phẩm để lan tỏa nguồn sức mạnh tích cực cho cộng đồng.
#HỌC TỐT NHE :3
Cho đề bài sau:
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ "Cảnh Khuya"- Hồ Chí Minh
Yêu cầu: Tìm hiểu đề, tìm ý, và phát biểu cảm nghĩ?
Ai làm sớm mình tick cho nhé
Em tham khảo:
I. Mở bài: giới thiệu bài thơ cảnh khuya
Ví dụ:
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bác không chỉ được biết đến với vai trò là một vị chính trị tai ba mà Bác còn là một nhà thơ với lòng yêu nước sâu sắc, yêu thiên nhiên đậm đà. Một bài thơ thể hiện niềm yêu thiên nhiên khôn xiết của Bác là bài Cảnh khuya.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
II. Thân bài: nêu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya
1. Hai câu thơ đầu
- Cảnh khuya núi rừng Tây Bắc được miêu tả hết sức đặc sắc
- Tiếng suối trong vọng như tiếng hát: ví tiếng suối như tiếng hát, gợi tả tiếng suối, núi rừng mang hơi ấm con người
- Cảnh trăng với sự hòa quyện giữa thiên nhiên núi rừng
- Một tâm hồn thi sĩ được thể hiện rõ nét
- Bức tranh thiên nhiên rất lung linh, huyền dịu
2. Hai câu thơ sau
Lòng yêu nước sâu sắc
Mạch thơ thể hiện rõ ràng và chi tiết
Lòng yêu thiên nhiên và yêu nước hòa quyện vào nhau.
III. Kết bài: nêu ý kiến của em về bài thơ Cảnh khuya
Ví dụ:
Qua bài thơ ta có thể thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của Bác được thể hiện rõ nét qua bài thơ. Qua đó ta cũng thấy được một tinh thần bất khuất, quật cường của một người chiến sĩ.
Đề 1: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn văn "Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ .............. như nổi lềnh bềnh trên một biển nước" trong truyện "Sơn Tinh, Thủy Tinh"
Đề 2: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn văn "Sơn Tinh không hề nao núng ........................ Thần Nước đành rút quân" trong truyện "Sơn Tinh, Thủy Tinh"
~ Mina - san làm cả 2 đề giúp tou - san với ạ ~ Luật như cũ ~ Nghiêm cấm chép mạng ~
Đề 2 : Đoạn trích trên là một đoạn trích tiêu biểu nằm trong phần cuôi truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh . Đây là văn bản đặc sắc nhất của dân tộc ta . Đoạn văn trên kể về trận chiến quyết liệt giữa 2 vị thần , nổi bật lên là hình ảnh vẻ đẹp của Sơn Tinh . Hình ảnh Sơn Tinh hiện lên thật oai phong , lầm liệt , không hề nao núng . Trước sức mạnh tấn công của Thủy Tinh , chàng bình tĩnh , vững vàng chống trả " bốc đồi , dời núi , ngăn chặn dòng nước lũ khiến thần nước đành phải rút lui . Một loạt động từ mạnh như " bốc , dời , dựng , chặn , dâng , đánh " đã giúp cho người đọc hình dung cụ thể rõ nét hơn sự gay go , quyết liệt của trận chiến . Đoạn văn thành công nhất bởi chi tiết " Nước sông dâng lên bao nhiêu , đồi núi cao lên bấy nhiêu " bởi đây là chi tiết hấp dẫn và giàu ý nghĩa . Chi tiết hình tượng hóa , cụ thể hóa cuộc chiến dai dẳng giũa Sơn Tinh và Thủy Tinh . Cuối cùng , Sơn Tinh thắng , Thủy Tinh thua . Chi tiết còn gợi ra chiến công của người Việt cổ trong công cuộc đấu tranh chế ngự thiên tai , đồng thời thể hiện ước mơ chinh phúc , chiến thằng thiên tai của ông cha ta . Qua đoạn trích chúng ta đã hiểu rõ hơn hiện tượng bão lũ thiên tai và công cuộc đấu tranh chống thiên tai của người Việt cổ .
Hãy nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Mã Lương trong câu chuyện "Cây bút thần"
Mk sẽ tick cho bạn nào nhanh nhất và làm bài hay nhất nhé !
Cây bút thần mà ông tiên đã tặng cho Mã Lương trong giấc mộng chỉ là một chi tiết kì ảo thần thoại. Nhưng nhờ cây bút thần mà Mã Lương đã giúp đỡ được nhiều người nghèo. Có cây bút thần Mã Lương đã dùng nó để chủ động trừng phạt tên địa chủ và tên vua tham lam độc ác. Nhưng mình thích nhất là lòng say mê học tập, sự vượt khó của Mã Lương. Lấy que củi vạch xuống đất, nhúng tay xuống nước để vẽ. Mã Lương đã vượt qua hoàn cảnh thiếu thốn của mình, tự tạo ra phương tiện để học riêng.
Mã Lương đã cho em một bài học sáng giá : bền chí say mê sẽ đạt được khát vọng. Vì nếu Mã Lương không dày công luyện tập, thì có bút thần cũng không vẽ được cái gì.
Mã Lương là một biểu tượng về sự thành công của tài năng qua sự kiên trì, say mê tập luyện. Và cái chính của câu chuyện là khuyên con người nhiệt tình và lao động và biết quan tâm đến đồng loại.
Cây bút thần mà Mã Lương được ông tiên trong giấc mộng ban cho chỉ là một chi tiết thần kì huyền thoại. Nhưng nhờ nó mà người kể đã khắc họa được nhiều nét đặc sắc trong tính cách chú bé Mã Lương. Có cây bút thần trong tay, Mã Lương đã giúp đỡ đồ dùng, công cụ làm ăn cho nhiều người nghèo. Có cây bút thần, Mã Lương đã chủ động đối phó, trừng trị tên địa chủ và ông vua tham ác.
Nhưng với em, em thích nhất lòng say mê học tập của Mã Lương. Lấy que vạch xuống đất, nhúng ngón tay vào nước vẽ lên đá... Mã Lương đã vượt lên hoàn cảnh thiếu thốn của mình, tự tạo lấy phương tiện học tập riêng. Ngẫm về bản thân, em cũng thấy rõ điều ấy. Khi thiếu một niềm say mê tự nguyện, thiếu một động cơ bên trong mạnh mẽ thôi thúc, thì từ làm một bài toán đến sửa một đồ dùng trong nhà, ta cũng sẽ cảm thấy chầy chật, không đủ sức kiên trì theo đuổi đến cùng, không có cảm hứng sáng tạo.
Chú bé Mã Lương này còn một nét tính cách khác mà em thấy đáng yêu: thái độ ứng xử có phân biệt tùy đối tượng. Với người nghèo lương thiện, Mã Lương vẽ cho có cày có cuốc, có thức ăn, vật dùng. Nhưng với tên địa chủ gian ác, Mã Lương vẽ cho mũi tên hạ thủ; với ông vua tham lam, Mã Lương vẽ cho sóng gió chìm tàu. Mã Lương đã biết “đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.
Mã Lương cho em bài học sáng giá: bền chí say mê cần cù sẽ đạt được khát vọng. Rõ ràng nếu như Mã Lương không dày công tự luyện, thì có bút thần cũng chẳng vẽ nổi cái gì. Nếu ta cứ tháng này lao vào tin học, tháng sau lại bỏ để đi học một lớp tiếng Anh, tháng sau nữa lại nhảy sang học đàn chẳng hạn, thì rút cuộc chẳng có gì nên cơm cháo cả. Chẳng thế mà ông cha ta đã khuyên:
" Hãy cho bền chí câu cua
Dù ai câu chạch, câu rùa mặc ai!"
Mã Lương là một biểu tượng về sự thành công của tài năng qua kiên trì, say mê tập luvện. Cái cốt hiện thực của truyện chính là khuyên con người nhiệt tình lao động và biết quan tâm đến đồng loại.
Cây bút thần mà Mã Lương được ông tiên trong giấc mộng ban cho chỉ là một chi tiết thần kì huyền thoại. Nhưng nhờ nó mà người kể đã khắc họa được nhiều nét đặc sắc trong tính cách chú bé Mã Lương. Có cây bút thần trong tay, Mã Lương đã giúp đỡ đồ dùng, công cụ làm ăn cho nhiều người nghèo. Có cây bút thần, Mã Lương đã chủ động đối phó, trừng trị tên địa chủ và ông vua tham ác.
Nhưng với em, em thích nhất lòng say mê học tập của Mã Lương. Lấy que vạch xuống đất, nhúng ngón tay vào nước vẽ lên đá... Mã Lương đã vượt lên hoàn cảnh thiếu thốn của mình, tự tạo lấy phương tiện học tập riêng. Ngẫm về bản thân, em cũng thấy rõ điều ấy. Khi thiếu một niềm say mê tự nguyện, thiếu một động cơ bên trong mạnh mẽ thôi thúc, thì từ làm một bài toán đến sửa một đồ dùng trong nhà, ta cũng sẽ cảm thấy chầy chật, không đủ sức kiên trì theo đuổi đến cùng, không có cảm hứng sáng tạo.
Chú bé Mã Lương này còn một nét tính cách khác mà em thấy đáng yêu: thái độ ứng xử có phân biệt tùy đối tượng. Với người nghèo lương thiện, Mã Lương vẽ cho có cày có cuốc, có thức ăn, vật dùng. Nhưng với tên địa chủ gian ác, Mã Lương vẽ cho mũi tên hạ thủ; với ông vua tham lam, Mã Lương vẽ cho sóng gió chìm tàu. Mã Lương đã biết “đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.
Mã Lương cho em bài học sáng giá: bền chí say mê cần cù sẽ đạt được khát vọng. Rõ ràng nếu như Mã Lương không dày công tự luyện, thì có bút thần cũng chẳng vẽ nổi cái gì. Nếu ta cứ tháng này lao vào tin học, tháng sau lại bỏ để đi học một lớp tiếng Anh, tháng sau nữa lại nhảy sang học đàn chẳng hạn, thì rút cuộc chẳng có gì nên cơm cháo cả. Chẳng thế mà ông cha ta đã khuyên:
Hãy cho bền chí câu cua
Dù ai câu chạch, câu rùa mặc ai!
Mã Lương là một biểu tượng về sự thành công của tài năng qua kiên trì, say mê tập luvện. Cái cốt hiện thực của truyện chính là khuyên con người nhiệt tình lao động và biết quan tâm đến đồng loại.
Đề 1: Tả loài cây em yêu Đề 2: cảm nghĩ về dòng sông em yêu Đề 3: hãy viết 1 bài văn bộc lộ cảm xúc về 1 người mà em yêu quý Đề 4: phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “ tiếng gà trưa-Xuân Quỳnh” Cho biết đề nào là đề miêu tả? Vì sao?
Đề miêu tả là đề 1.
Vì yêu cầu đề là "tả" loài cây em yêu, cần dùng nhiều tính từ để gợi được hình dáng vẻ đẹp của loài cây mình tả.
Lập dàn ý bài tập nói ở nhà theo tinh thần một bài phát biểu trước lớp
Đề: Cảm nghĩ về vườn nhà
Help me please!!!!!
- Mở bài: + Giới thiệu khu vườn. + Tình cảm của bạn thân đối với vườn nhà. - Thân bài. + Khu vườn có từ lúc nào? Ai xây dựng nên? + Miêu tả khu vườn: diện tích, cây cối, sự bày trí cảnh quan của gia đình.
+ Sự lao động chăm bón của bố mẹ và bản thân hoặc các thành viên khác trong gia đình. + Vườn và cây trái suốt bốn mùa. - Kết bài: + Cảm xúc về vườn nhà
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về tinh thần chiến đấu hy sinh của nhân vật Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu.
Viết về những gương thiếu nhi Việt Nam anh hùng, bài thơ Lượm của Tố Hữu là một tác phẩm đặc sắc nhất của nền thi ca kháng chiến.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn trong sáng đáng yêu của Lượm, nhà thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh và phầm chất anh hùng của chú đội viên liên lạc.
Hình ảnh Lượm bỗng "cao lớn" phi thường:
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề: "Thượng khẩn"
Sợ chi hiểm nghèo?.
Giữa mặt trận đạn bay vèo vèo, chú liên lạc đã xông lên vượt qua, vụt qua. Hai chữ vụt qua thể hiện động tác chiến đấu nhanh nhẹn, quả cảm vô cùng. Không thể do dự và chậm trễ khi đang mang trên mình bức thư thượng khẩn. Vì nó là mệnh lệnh chiến đấu. Câu thơ sợ chi hiểm nghèo? vang lên như một lời thách thức, như một lời thề chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Người chiến sĩ nhỏ khác nào "một tiên đồng" đang dạo chơi trên đồng lúa trỗ đòng đòng. Từ láy "nhấp nhô" gợi tả một tư thế hồn nhiên, bình tĩnh của chú liên lạc trên đường băng qua mặt trận đầy khói lửa:
Đường quê vắng vẻ
Lúa trỗ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng....
Nhà thơ như đang "nín thở" dõi theo. Và Lượm đã ngã xuống. Câu thơ có lửa và máu, có lời than và nỗi đau. Hai câu cảm thán liên tiếp như tiếng nấc đau đớn cất lên:
Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!.
Lượm đã chiến đấu vì quê hương. Lượm đã hy sinh vì quê hương. Lượm đã tử thương nhưng tay chú còn nắm chặt bông lúa. Lượm đã ngã xuống nhưng hồn chú vẫn bay giữa đồng lúa thơm ngạt ngào mùi sữa:
Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng.
Đây là những câu thơ hay nhất nói về sự hy sinh của người chiến sĩ trên chiến trường. Tố Hữu đã sáng tạo nên một không gian nghệ thuật có hương lúa quyện hồn chiến sĩ vừa thân thuộc vừa bình dị, vừa bát ngát thiêng liêng. Chú đội viên liên lạc đã ngã xuống trong tư thế người anh hùng tuổi thiếu niên!.
Phần cuối bài thơ, Tố Hữu nhắc lại tám câu thơ ở đoạn đầu. Cấu trúc ấy được thi pháp gọi là "đầu - cuối tương ứng" hoặc kết cấu vòng tròn. Trong bài thơ này, cấu trúc ấy có một giá trị thẩm mĩ đặc sắc. Chú đội viên liên lạc đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận, nhưng tinh thần yêu nước, chí khí dũng cảm và tên tuổi người anh hùng tuổi thiếu niên vẫn bất tử, sống mãi trong lòng nhân dân ta. Có cái chết hoá thành bất tử, đó là sự hy sinh oanh liệt của Lượm. Tấm gương anh hùng của Lượm sáng mãi ngàn thu.
Hãy nêu những suy nghĩ của em về cách kết thúc của truyện Cây Bút Thần
Nếu có cây bút thần em sẽ làm gì ( giúp )
Em sẽ viết những điều giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn
Cây bút thần là một truyện cố tích đặc sắc của kho tàng cổ tích Trung Quốc và nhân loại. Truyện kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, với cây bút thần trong tay đã giúp ích rất lớn cho cuộc đời.
Mã Lương - tên cậu bé đó - thuộc kiểu nhân vật có tài năng kì lạ. Đây là kiểu nhân vật phổ biến trong truyện cổ tích.
Tài năng của Mã Lương không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là kết quả của một quá trình say mê, cần cù luyện tập, cộng với trí thông minh và tài năng bẩm sinh. Tuy nhiên tài năng ấy chỉ có thể trở thành kì lạ khi có sự trợ giúp của lực lượng thần kì: Thần trao cho cây bút bằng vàng có thể vẽ được những vật thật.
Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao thần lại ban cho Mã Lương cây bút thần mà không ban cho một ai khác. Phải chăng, đầy là sự ban thưởng xứng đáng cho những người có tâm, có tài, có trí, khổ công học tập và rèn luyện? Và phải chăng, đặt cây bút thần vào trong tay Mã Lương, thần còn đặt vào đó một niềm tin và sự kì vọng nào đó? Và Mã Lương đã không phụ lòng kì vọng của thần linh. Với cây bút thần trong tay, Mã Lương đã giúp đỡ những người nghèo khổ trong làng. Điều đáng nói ở đây là Mã Lương không vẽ cho họ thóc lúa, trâu bò, dê lợn, vàng bạc..., cậu chỉ vẽ cho hộ cày, cuốc, đèn, thuổng... Tại sao vậy? Có thể nói, chỉ một chi tiết nhỏ thôi nhưng ý nghĩa lại rất sâu sắc. Mã Lương không vẽ cho họ những của cải sẵn có để họ chỉ việc hưởng thụ. Cậu bé vẽ cho họ những phương tiện cần thiết cho cuộc sống đế’ họ sản xuất, tạo ra của cải. Từ việc làm của Mã Lương, tác giả dân gian muốn nêu ra một quan niệm sống đẹp: của cải do con người hưởng thụ phải do chính con người làm ra. Quan niệm sống ấy chứa đựng cả một tinh thần nhân bản, tạo ra cho truyện cổ tích này một lớp ánh sáng nhân văn chiếu rọi vào tầm hồn bạn đọc.
Truyện Cây bút thần thể hiện ước mơ của nhân dân có được sức mạnh và khả năng kì diệu để giúp đỡ những người dân nghèo lao động hiệu quả hơn, đồng thời trừng phạt những kẻ tham lam, độc ác. Truyện nhằm khẳng định nghệ thuật chân chính phải được nuôi dưỡng từ thực tế, gắn liền với tài năng, đức độ, tinh thần say mê sáng tạo và chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho những mục đích chính đáng của con người. Truyện còn thể hiện mơ ước và niềm tin vào những khả năng kì diệu của con người.
Phát biểu cảm nghĩ về bài tùy bút Mùa xuân của tôi của Vũ Bằng
Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng (1913 – 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng.
Bài văn này trích từ thiên tuỳ bút Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt in trong tập Thương nhớ mười hai. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng kiểm soát của Mĩ – ngụy, xa cách quê hương đất Bắc, Nhà văn đã gửi vào trang sách nỗi niềm thương nhớ quê hương, gia đình tha thiết và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Điều đó thể hiện qua hoài niệm về cảnh sắc thiên nhiên và phong vị cuộc sống hằng ngày của Thủ đô Hà Nội với vẻ đẹp mang đậm bản sắc văn hóa tinh tế của một vùng và cũng là của chung đất nước.
Nói đến tình yêu nồng nàn của mình đối với mùa xuân, tác giả mượn quy luật để khẳng định: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì Lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Nhà văn nhớ về mùa xuân đất Bắc là nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên và những cảnh sinh hoạt đời thường mang nét đặc trưng nhất. Những hình ảnh đẹp đẽ, khó quên tái hiện rõ ràng trong tâm tưởng nhà văn: Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng…
Giọng văn du dương, trầm bổng, giàu chất thơ của Vũ Bằng đã đưa chúng ta vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Thế giới ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của kẻ tha hương. Nhà văn nhắc đi nhắc lại như lời tỏ tình thiết tha, say đắm: Mùa xuân của tôi… mùa xuân thần thánh của tôi… Điều đó chứng tỏ tình yêu mùa xuân đã thấm sâu vào tâm hồn, vào máu thịt của người con đất Bắc. Để nhấn mạnh sức sống và sự cuốn hút kì lạ của mùa xuân, tác giả đã dùng cách nói cường điệu; cường điệu mà vẫn rất tự nhiên: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn… Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến.
Không khí ấm áp mùa xuân còn hiện lên trong khung cảnh gia đình ngày Tết với bàn thờ, đèn nến, hương trầm… và tình cảm cha con, vợ chồng, anh em quấn quýt, sum vầy. Viết về những cảnh này, giọng điệu của tác giả vừa sôi nổi nhiệt thành, vừa da diết lắng sâu. Điều đó đã tạo nên âm hưởng trữ tình và sức truyền cảm mạnh mẽ của đoạn văn.
Cuối bài văn, tác giả tập trung miêu tả những nét riêng của trời đất, thiên nhiên vào thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng Âm lịch. Khả năng quan sát sắc sảo và cảm nhận tinh tế của tác giả được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu và những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc:
… Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Qua bài văn hay và đẹp như một bài thơ trữ tình, người đọc thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kĩ càng mà còn rất yêu mến mùa xuân, yêu mến thiên nhiên; biết trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp kì diệu mà nó mang đến cho con người. Vũ Bằng quả là một cây bút tài hoa của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Có lẽ mùa xuân là đề tài gợi nhắc nhiều xúc cảm đối với văn nghệ sĩ. Vũ Bằng là một trong số cây bút viết hay, viết sâu sắc về mùa xuân bằng giọng thơ tinh tế và đầy chất thơ. Với sở trường tùy bút và bút kí ông đã vẽ nên bức tranh mùa xuân đất bắc tuyệt vời qua “Mùa xuân của tôi”.
“Mùa xuân của tôi” là dòng tản mạn ghi chép lại những xúc cảm sâu lắng và ngọt ngào nhất của Vũ Bằng về mùa xuân, về những giao thoa của đất trời khi bước sang một năm mới, một mùa mới ấm áp. Với giọng văn nhẹ nhàng, dìu dặt, tác giả đã kéo người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng tràn sức sống. Bởi rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất, thi vị và duyên dáng nhất trong một năm.
Trải dọc bài thơ chính là tấm chân tình của tác giả dành cho mùa xuân đất bắc. Sự hòa quyện với thiên nhiên, với đất trời, với con người.
Từ những câu văn đầu tiên, tác giả đã vẽ nên đặc trưng của thời tiết và khí xuân miền Bắc với “mưa rêu rêu gió lành lạnh” không nơi nào có được. Chính đặc trưng này làm nền tảng để tác giả có thể vẽ thêm nhiều vẻ đẹp khác nhau nữa. Những thanh âm như tiếng nhạn kêu, câu hát huê tình quyện với sự ấm áp của nhang trầm, của không khí đoàn tụ gia đình khiến tác giả thổn thức nhớ thương. Có lẽ chính những điều ấm áp và bình dị đó khiến tác giả không nguôi khi nhớ về.
Mùa xuân đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên nhưng chính từ lòng người cũng toát lên vẻ đẹp quyến rũ, nồng nàn đó. Tác giả đã viết “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Mùa xuân khiến cho trái tim con người muốn cựa quậy, muốn thổn thức và muốn bùng cháy. Xuân đến “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”. Cái rét của mùa xuân là cái rét ngọt ngào từ không “căm căm” như mùa đông xứ Bắc nữa.
Vũ Bằng ới những cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ và nhiều hình ảnh so sánh mới lạ đã khiến người đọc hồi tưởng về những mùa xuân đã qua, mùa xuân của quê hương, của lòng người mênh mang.
Và xuân đến, tháng giêng chính là biểu tượng tươi đẹp nhất, cũng là nơi hội tụ của những vẻ đẹp ngọt ngào. Như Xuân Diệu từng nói “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Trong văn Vũ bằng không ngọt ngào, hối hả như Xuân Diệu nhưng lại đằm thắm và da diết nhất khiến cho người đọc lâng lâng, mê đắm. Khi tháng giêng về cũng là lúc đất trời bắt đầu có sự chuyển giao kì diệu và đầy tinh tế. Nét đẹp tháng giêng đất bắc là nét đẹp dịu dàng mà đằm thắm, có sự hòa quyện giữa con người với thiên nhiên đất trời. Và có lẽ lòng người cũng đồng điệu theo những nhịp điệu của mùa xuân.
Thật vậy “mùa xuân của tôi” của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, tinh khôi và đầy tươi mới nhất khi viết về mùa xuân,. Nó gợi nhắc cho người đọc về những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của mùa xuân tươi đẹp.
Chúng ta từng biết và cảm thông với tấm lòng của những người phải sống xa quê hương, trĩu nặng tình quê trong thơ Đường của Lí Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương,... Ở Việt Nam, cách đây không lâu cũng có một nghệ sĩ do hoàn cảnh riêng và yêu cầu công tác cách mạng phải xa rời quê hương miền Bắc vào sống ở miền Nam mấy chục năm trời, nhà văn Vũ Bằng - một nhà văn từng nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tấm lòng của Vũ Bằng đối với quê hương đã được gửi gắm trong tác phẩm tuỳ bút - bút kí đặc sắc Thương nhớ mười hai mà đoạn trích Mùa xuân của tôi là tiêu biểu. Đoạn trích Mùa xuân cùa tôi là một phần trong thiên tuỳ bút dài có tên Tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt, mở đẩu cho nỗi "thương nhớ mười hai" của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn trích đã tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. Vì là đoạn trích từ một thiên tuỳ bút nên không có bố cục hoàn chỉnh của một tác phẩm. Tuy vậy, đọc bài văn Mùa xuân của tôi, chúng ta vẫn hiểu và suy ngẫm về ý nghĩ và tình cảm của tác giả theo ba đoạn nhỏ: Đoạn mờ đầu: từ đầu đến "... mê luyến mùa xuân" : Con người say mê lưu luyến mùa xuân là một điều tất yếu, tự nhiên. Đoạn thứ hai: từ "Tôi yêu sông xanh..." đến "... mớ hội liên hoan" : Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc. Đoạn ba : từ "Đẹp quá đi..." đến hết bài : Cảnh sắc, đất trời mùa xuân miền Bắc từ sau rằm tháng giêng. "Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội...".Ở phần đầu đoạn hai, nhà văn Vũ Bằng đã nhớ về quê hương bằng một câu văn ngân nga như những tiếng reo vui như thế. Sau đó, qua hồi tưởng của ông, cảnh sắc và không khí ngày tết - mùa xuân Hà Nội - hiện ra đẹp quá, vui quá, đáng yêu, đáng nhớ làm sao. Tín hiệu báo xuân về là : "Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình...". Mưa riêu riêu là mưa thế nào ? Tiếng hát huê tình là gì ? Mưa riêu riêu là mưa phùn, hạt nhỏ, kéo dài, mưa xuân âm ẩm, mát lành. Tiếng hát huê tình là tiếng hát tỏ tình, tiếng hát của trai gái yêu nhau... Trước cảnh sắc mùa xuân như thế, nhà văn Vũ Bằng - người đang sống li hương - đã nhớ kỉ niệm xưa của mình và sống lại, kể lại bằng những câu văn trữ tình đàm thắm. Nào là "Người yêu cảnh... khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài... không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa... sự sống !". Nào là "Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ớ trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai...". Nào là "Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn... Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống lại" và thèm khát yêu thương. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa...". Có thể nói, đối với mùa xuân quê hương, nhà văn Vũ Bằng mang một tình yêu nồng nàn, đằm thắm. Ông đã tự vẽ lại hình ảnh của chính mình khi còn sống ở Hà Nội với biết bao lời văn, bao cách so sánh đẹp đẽ. Ngỡ như, trước mùa xuân, ông đã hoá thân thành muôn loài cỏ cây, muông thú để được tắm trong mùa xuân, hưởng thụ tất cả sức sống tràn trề của mùa xuân để lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân. Đoạn văn xuôi tuỳ bút, ngẫu hứng y như đoạn thơ trữ tình mà ở đó, cái tôi nhà văn trở thành một thi sĩ đa tình, say đắm, đáng cảm thông. Đọng lại của cảnh sắc mùa xuân Hà Nội và nỗi nhớ quê hương của Vũ Bàng là hình ảnh gia đình người Hà Nội bày cỗ đón xuân, bái vọng tổ tiên trở vể vui xuân cùng con cháu : "Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng...". Cảnh sắc mùa xuân không chỉ hiện lên bằng vẻ đẹp thiên nhiên mà còn hiện lên bằng nhũng nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của con người. Đó là nét văn hoá truyền thống của thủ đô Hà Nội, của đất Bắc, của Việt Nam quê hương chúng ta. Cảm nhận và ngợi ca quê hương miền Bắc mùa xuân bằng đoạn vãn phóng túng vừa miêu tả vừa tự sự, miêu tả để biểu cảm, ngòi bút Vũ Bằng như không muốn dừng lại. Do đó, xuống đoạn ba, ông tiếp tục khẳng định : "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thươne mến". Sau đó, cảm xúc và bút lực như lắng lại, trầm tĩnh hơn. Nhà văn tâm sự : "Tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng...". Đến đây, nhà văn phát hiện một vẻ đẹp khác nữa của mùa xuân đất Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự hồi sinh, của đất trời, cây cỏ trổ lộc, đơm hoa, kết trái. "Đào hơi phai, nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh, nhưng... lại nức một mùi hương man mác... mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn... Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa... người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị... các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật...". Những hình ảnh thiên nhiên từ sau ngày rằm tháng giêng không sôi động, rực rỡ bằng những ngày Tết mà như đang bình tĩnh trở lại, đang tích tụ, chưng cất sức sống của mùa xuân để nối tiếp cuộc tuần hoàn kì diệu trong đời sống con người và đất trời, cây cỏ. Ở đoạn này, cái tôi nhà văn không trực tiếp hiện ra như ở đoạn trên mà đang nằm dài nhìn ra cửa sổ... để chiêm ngưỡng, để nhớ thương, và khao khát ngày mai trở lại quê hương, về gặp lại mùa xuân đất Bắc. Từ tình yêu mùa xuân thiên nhiên, tấm lòng thương nhớ quê hương, lòng yêu Tổ quốc của nhà văn Vũ Bằng mỗi lúc một đắm sâu, thấm thìa. Từ ngữ, câu văn, các biện pháp tu từ mỏi lúc một chắt lọc, vừa chính xác vừa in đậm phong cách văn chương của tác giả, rất tài hoa, phóng túng. Có thể nói, chỉ qua đoạn trích ngắn Mùa xuân của tỏi, chúng ta đủ hiểu và cảm thông tấm lòng của nhà văn Vũ Bằng đối với quê hương, Tổ quốc. Cảnh sắc thiên nhiên, khônq khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc đã được ông cảm nhận, tái hiện trong nổi nhớ thương da diết của một người xa quê. Qua đó, bài tuỳ bút biểu lộ chân thực và cụ thể tình quê hương, đất nước, lòng yêu cuộc sống và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, ngòi bút tài hoa của tác giả. Và cũng qua đó, chúng ta hiểu phần nào giá trị của tập tuỳ bút - bút kí nổi tiếng Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, đúng như Tô Hoài nhận xét : "Thương nhớ mười hai là một nét anh hoa của tấm lòng với cuộc đời". Đọc tuỳ bút Vũ Bằng, chúng ta nhớ lại hai thiên tuỳ bút đã được học : Một thứ quà của lúa non : Cốm (Thạch Lam), Sài Gòn tôi yêu (Minh Hương), ở một mức độ nào đấy, hai thiên tuỳ bút nói trên cũng dều là những nét anh hoa của tấm lòng các nhà văn đối với cuộc đời. Tuỳ bút quả là một thê văn xuôi trữ tình vô cùng thú vị...