Đây là phiên bản do Đỗ Thanh Hải
đóng góp và sửa đổi vào 12 tháng 8 2021 lúc 19:13. Xem phiên bản hiện hành
Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống ở thế kỉ XIX, chưa rõ năm sinh, năm mất
- Quê quán: làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội
- Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, do đó mà có tên gọi Bà Huyện Thanh Quan
- Bà là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật.
- Thơ bà thể hiện lòng yêu mến cảnh quan thiên nhiên, đất nước và tâm sự u hoài trước thế sự đổi thay. Tác phẩm nào của bà cũng buồn thương da diết, trang nhã và rất điêu luyện
1. Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ được sáng tác khi bà từ trên đường từ Bắc Hà vào Huế nhận chức “Cung Trung giáo tập”
2. Bố cục (4 phần )
- Phần 1 (hai câu đề): Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang
- Phần 2 (hai câu thực): Cuộc sống của con người ở Đèo Ngang
- Phần 3 (hai câu luận): Tâm trạng của tác giả
- Phần 3 (hai câu kết): Nỗi cô đơn đến tột cùng của tác giả
3. Giá trị nội dung
bài thơ “Qua Đèo Ngang” cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời, thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà, nỗi buồn thầm lặng, cô đơn của tác giả
4. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
- Sử dụng từ láy gợi hình gợi cảm và nghệ thuật đối lập, đảo ngữ
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Bà Huyện Thanh Quan (tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm sáng tác…)
- Giới thiệu về bài thơ “Qua Đèo Ngang” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Cái nhìn chung về cảnh vật Đèo Ngang
- Thời gian: xế chiều – thời điểm dễ gợi nên nỗi buồn cô đơn, sự trống vắng
- Không gian: Đèo Ngang – một con đèo hùng vĩ, phân chia hai tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, là ranh giới phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài ngày xưa
- Cảnh vật:
+ Các sự vật: cỏ cây, lá, đá, hoa
+ Động từ: chen – lẫn vào nhau, không ra hàng ra lối, động từ “chen” chen vào giữa hai câu thơ gợi cảnh tượng rậm rạp, hoang sơ
⇒ Cảnh vật đầy sức sống nhưng hoang sơ, rậm rạp và hắt hiu
2. Cuộc sống con người ở Đèo Ngang
- Sử dụng từ láy có giá trị gợi hình: lom khom, lác đác – gợi cảm giác thưa thợt, ít ỏi
- Nghệ thuật đảo ngữ:
+ Lom khom … tiều vài chú
+ Lác đác … chợ mấy nhà
⇒ Nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi, nhỏ nhoi của sự sống ở giữa cảnh vật thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ
⇒ Hình ảnh con người hiện lên thưa thớt, ít ỏi làm cho cảnh vật thêm hoang vắng, tiêu điềi. Qua đó, gợi cảm giác buồn hiu, vắng lặng của tác giả
3. Tâm trạng của tác giả
- Âm thanh của chim quốc quốc, gia gia: nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chơi chữ. Tiếng chim quốc, chim gia gia nhớ nước, thương nhà cũng chính là tiếng lòng của tác giả thiết tha, da diết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước
- Câu thơ như một tiếng thở dài của tác giả
⇒ Tâm trạng nhớ nước, nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả. Đó cũng chính là tâm trạng hoài cổ của nữ sĩ
4. Nỗi cô đơn tột cùng của tác giả
- Con người nhỏ bé, lẻ loi, cô đơn, một mình đối diện với cả vũ trụ bao la, rộng lớn
- “Một mảnh tình riêng, ta với ta”: một nỗi buồn, một nỗi cô đơn không có ai để se chia, san sẻ
⇒ Tâm trạng cô đơn, trống vắng, lẻ loi một mình đối diện với chính mình giữa vũ trụ bao la, rộng lớn
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác giả:
+ Nội dung: Cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống của con người và tâm trạng nhớ nước, thương nhà và nỗi cô đơn của tác giả
+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn bát cú, sử dụng từ láy, nghệ thuật đảo ngữ…