Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Đỗ Phủ (712 - 770) là nhà thơ hiện thực nổi tiếng vào đời Đường ở Trung Quốc, tự là Tự Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam.
- Ông từng làm quan trong một thời gian ngắn nhưng gần như suốt đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật.
- Năm 759, ông cáo quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, phủ Tứ Xuyên.
- Ông để lại cho đời 1500 bài thơ.
- Bút pháp hiên thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của ông đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
a. Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ được sáng tác năm 760. Khi được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Đỗ Phủ vừa ở nhà mới được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát. Bài thơ là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ.
b. Bố cục
- Phần 1: (Khổ 1): Cảnh ngôi nhà bị gió thu phá.
- Phần 2: (Khổ 2): Cảnh những đứa trẻ cướp tranh.
- Phần 3: (Khổ 3): Nỗi khổ của gia đình trong đêm.
- Phần 4: (Khổ 4): Ước vọng của nhà thơ.
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
- Ở khổ thơ 1, tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn 2 phương thức biểu đạt là tự sự và miêu tả.
- Tự sự: kể về sự kiện ngôi nhà bị gió thu tàn phá:
+ Thời gian: vào tháng 8 - thời gian chính của mùa thu.
+ Sự kiện: ngôi nhà tranh bên sông bị gió thu tàn phá làm bay mất 3 lớp tranh.
- Miêu tả: khắc họa rõ nét khung cảnh tiêu điều, xơ xác của ngôi nhà khi bị gió thu tàn phá:
+ Hình ảnh gió thu: "thét già" thể hiện sự mạnh bạo, buốt giá của những cơn gió như tiếng thét gào.
+ Hình ảnh những mái tranh của ngôi nhà bị gió thu cuốn mất: bị gió thổi vỡ ra, bay đi tán loạn khắp nơi: Bay sang bờ sông, Treo ở ngọn rừng xa, Rớt xuống mương...
- Nhà thơ đã dùng bút pháp tả thực để khắc họa vô cùng chân thực, rõ nét sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Đồng thời tái hiện lại khung cảnh xơ xác, tiêu điều, tàn tạ của ngôi nhà và cảnh vật xung quanh sau đêm gió lớn.
-> Từ đó, ta thấy được sự buồn bã, lo lắng và bất lực của nhân vật trước cảnh tan tác của ngôi nhà (mái tranh mỗi mảnh một hướng).
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
- Ở khổ thơ 2, tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn 2 phương thức biểu đạt là tự sự và miêu tả.
- Tự sự: kể lại sự kiện những đứa trẻ con tranh nhau cướp giật những miếng tranh của nhà tác giả bị gió thu thổi bay.
- Miêu tả:
+ Hình ảnh những đứa trẻ: Khinh thường người già yếu đuối; xô đẩy, cướp giật lẫn nhau để tranh giành miếng tranh; cướp được miếng tranh thì bỏ chạy trước mặt chủ của nó...
- Nhà thơ đã miêu tả những đứa trẻ con vô cùng xấu tính, với hành động hư hỏng, không thể chấp nhận - cướp giật. Những đứa trẻ này là sản phẩm của một xã hội loạn lạc, đói khổ lúc bấy giờ. Đồng thời tượng trưng, đại diện cho những kẻ xấu xa, ích kỉ đang hoành hành trong đời sống.
+ Hình ảnh ông già tội nghiệp (tác giả): Già yếu không thể gào thét được; môi khô, miệng cháy; chống gậy về nhà mà lòng ấm ức.
- Khắc họa hình ảnh một ông lão già yếu, tội nghiệp, bị cướp ngay trước mặt mà bất lực, không thể làm gì được. Hình ảnh ông lão tượng trung cho lớp người nghèo khổ, hiền lành ở đáy xã hội lúc bấy giờ, luôn bị chà đạp, bóc lột nhưng không thể phản kháng được, chỉ biết cắn răng chịu đựng, nuốt ấm ức vào trong.
-> Ở khổ thơ thứ 2, nhà thơ đã thể hiện nỗi đau buồn, bất lực, ấm ức của mình trước hoàn cảnh suy đồi của xã hội loạn lạc, cùng cực lúc bấy giờ. Khi mà con người vì tư lợi của bản thân mà làm những điều sai trái, đến cả những đứa trẻ cũng không nằm ngoài vòng xoáy ấy.
Giây lát, gió lặng, mưa tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
- Ở khổ thơ 3, tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn 3 phương thức biểu đạt là tự sự, miêu tả và biểu cảm.
- Tự sự: kể về những vất vả, khó khăn của gia đình tác giả trong đêm mưa thu rét mướt.
- Miêu tả:
+ Hình ảnh thiên nhiên: Trời thu mịt mịt, đêm đen đặc; Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt; Đêm dài ướt át.
- Khắc họa một đêm mùa thu mưa gió rét mướt, lạnh giá khiến người ta mệt mỏi.
- Hai lần chi tiết đêm đen được lặp lại - thể hiện sự tối tăm, bế tắc của cuộc sống con người trong đêm tối giá buốt.
+ Hình ảnh ngôi nhà: Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt; Con nằm xấu nết đạp lót nát; Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu.
- Các hình ảnh này đã lột tả một cách chân thực cuộc sống thiếu thốn, khó khăn của nhà thơ:
+ Chăn đệm cũ nát đến không còn khả năng giữ ấm trong đêm lạnh giá.
+ Miếng lót cho con ngủ cũng đã "nát".
+ Nhà bị giột khắp nơi vì những mái tranh đã bị mất 3 miếng, những phần còn lại cũng hư hỏng, không đủ khả năng ngăn gió ngăn mưa.
+ Hình ảnh tác giả: Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê - Đêm dài ướt át sao cho trót?.
- Lý do thực sự khiến nhà thơ không ngủ được chính là vì lo cho muôn dân thiên hạ đang chịu nối khổ giống như mình. Vì trong thời thế chiến tranh loạn lạc, thì có vô vàn những con người phải chịu cảnh đói khổ, rét mướt ở ngoài kia.
- Chi tiết "từ trải cơn loạn lạc ít ngủ nghê" cho thấy tấm lòng cao cả, một lòng lo nghĩ cho thiên hạ của nhà thơ. Ông quên đi cái đau, cái rét của mình mà nghĩ cho cái khổ, cái đói của người khác.
- Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ thể hiện nỗi băn khoăn, trăn trở, lắng lo không nguôi của nhà thơ dành cho nhân dân khắp thiên hạ, đồng thời thể hiện sự đau khổ, bất lực của ông trước tình thế loạn lạc, đói khổ hoành hành ấy.
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ, kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy dựng sừng sững trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
- Ở khổ thơ 4, tác giả đã sử dụng phương thức biểu đạt biểu cảm một cách trực tiếp thông qua ước nguyện của mình.
- Ước nguyện của nhà thơ vô cùng thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn lúc bấy giờ:
- Ước mong có ngôi nhà che chở cho mọi nẻ sĩ nghèo ở trong thiên hạ - hướng đến những người có tài học những không gặp thời, phải chịu cảnh đói khổ - đây chính là những hình tượng con người có số phận như tác giả.
- Tư tưởng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao cả của nhà thơ:
+ Nếu ước mơ của ông biến thành hiện thực thì một mình ông chịu "chết rét cũng được".
+ Tư tưởng nguyện hi sinh bản thân mình để đối lấy an bình cho muôn dân của tác giả là vô cùng cao cả, phi thường.
+ Thể hiện tinh thần nhân ái, tình yêu thương lớn lao của nhà thơ dành cho muôn dân.
1. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do cổ thể.
- Sự sắp xếp các chi tiết theo trình tự hợp lí.
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm.
2. Nội dung
Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của chính bản thân Đỗ Phủ vì căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên nỗi bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ.