Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục, bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?
...
- Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây.
...
- Trong bài 1, chàng trai, cô gái hỏi - đáp về những địa danh, với những đặc điểm (của từng địa danh) như vậy, vì:
- Ở chặng hát đố của các cuộc hát đối đáp, đây là một hình thức để trai, gái thử tài nhau - đo độ hiểu biết kiến thức địa lí, lịch sử,...
- Câu hỏi và lời đáp hướng về nhiều địa danh ở nhiều kì của vùng Bắc Bộ. Những địa danh đó không chỉ có những đặc điểm địa lí tự nhiên, mà cả những dấu vết lịch sử, văn hóa rất nổi bật. Người hỏi biết chọn nét tiêu biểu của từng địa danh để hỏi. Người đáp hiểu rất rõ và trả lời đúng ý người hỏi. Hỏi - đáp như vậy là để thể hiện, chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương, đất nước. Chàng trai, cô gái cùng chung sự hiểu biết, cùng chung những tình cảm như thế. Đó là cơ sở và là cách để họ bày tỏ tình cảm với nhau.
- Qua lời hỏi và lời đáp, có thể thấy chàng trai và cô gái là những người lịch lãm, tế nhị.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn,
Đài Nghiên, Tháo Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
- Ở đây tác giả dùng cụm từ "rủ nhau", người ta dùng cụm từ này khi người rủ và người được rủ có quan hệ gần gũi, thân thiết. Họ (người rủ và người được rủ) có chung mối quan tâm và cùng muốn làm một việc gì đó.
- Bài ca gợi nhiều hơn tả. Chỉ tả bằng cách nhắc đến Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút. Đó cũng là những địa danh, cảnh trí tiêu biểu nhất của hồ Hoàn Kiếm.
- Địa danh và cảnh trí gợi một Hồ Gươm, một Thăng Long đẹp, giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Cảnh đa dạng, có hồ, cầu, có đền, đài và tháp. Tất cả hợp thành một không gian thiên tạo và nhân tạo thơ mộng, thiêng liêng. Địa danh gợi lên âm vang lịch sử và văn hóa.
- Câu hỏi cuối rất tự nhiên, giàu âm điệu nhắn nhủ, tâm tình. Đây cũng là dòng thơ xúc động, sâu lắng nhất trong bài ca, trực tiếp tác động vào tình cảm người đọc, người nghe. Câu hỏi khẳng định và nhắc nhở về công lao xây dựng non nước của ông cha nhiều thế hệ. Cảnh Kiếm Hồ và những cảnh trí khác của Hồ Gươm trong bài được nâng lên tầm non nước. Câu hỏi cũng nhắc nhở các thế hệ con cháu phải biết tiếp tục giữ gìn và dựng xây non nước cho xứng với truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc.
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Huế thì vô...
- Bài ca phác họa cảnh đường vào xứ Huế. Cảnh rất đẹp. Có non và có nước. Non thì xanh, nước thì biếc. Màu sắc toàn là màu gợi vẻ đẹp nên thơ, tươi mát, sống động. Non xanh nước biếc lại càng đẹp khi được ví với "tranh họa đồ". Cảnh sơn thủy trên đường vào xứ Huế là như thế! Cảnh đẹp vừa khoáng đạt bao la, vừa quây quần. Non xanh kia, nước biêc nọ cứ bao quanh xứ Huế. Cảnh đẹp ấy do tạo hóa và bàn tay con người tạo ra.
- Bài ca có nhiều chi tiết tả nhưng gợi vẫn nhều hơn tả. Các định ngữ và cách so sánh truyền thống đã gợi lên những cảnh đẹp sông núi có đường nét, màu sắc sinh động của con đường thiên lí vào xứ Huế.
- Đại từ phiếm chỉ "Ai" trong lời mời, lời nhắn gửi "Ai vô xứ Huế thì vô" - cũng như trong nhiều bài ca khác - thường có rất nhiều nghĩa. Mó có thể là số ít hoặc số nhiều, có thể chỉ người mà tác giả bài ca trực tiếp muốn nhắn gửi hoặc hướng tới người chưa quen biết.
- Lời mời, lời nhắn gửi đó, một mặt thể hiện tình yêu, lòng tự hào đối với cảnh đẹp xứ Huế, mặt khác như muốn chia sẻ với mọi người về cảnh đẹp và tình yêu, lòng tự hào đó. Lời mời đến thăm xứ Huế, phải chăng, còn là thể hiện ý kết bạn tinh tế và sâu sắc.
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông,
Thân em như chèn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
- 2 dòng thơ đầu khác với những dòng thơ bình thường, được kéo dài ra. Dòng thơ nào cũng kéo dài 12 tiếng để gợi sự dài rộng, to lớn của cánh đồng.
- Các điệp từ, đảo ngữ và phép đối xứng (đứng bên ni đồng - ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát - bát ngát mênh mông): nhìn ở phía nào cũng thấy cái mênh mông rộng lớn của cánh đồng. Cánh đồng không chỉ rộng lớn mà còn rất đẹp, trù phú, đầy sức sống.
- Hình ảnh cô gái ở 2 dòng cuối bài thơ 4 được so sánh như "chẽn lúa đòng đòng" và "ngọn nắng hồng ban mai" có sự tương đồng ở nét trẻ trung phơi phới và sức sống đang xuân.
- So với cánh đồng bao la, bát ngát, cô gái quả là nhỏ bé, mảnh mai. Nhưng chính bàn tay con người nhỏ bé đó đã làm ra cánh đồng "mênh mông bát ngát" kia. Trước cánh đồng rộng lớn, bát ngát, tác giả dân gian vẫn nhận ra cô gái đáng yêu. Những dòng thơ dài không che lấp những dòng thơ ngắn. hai dòng cuối bài có vẻ đẹp riêng trong sự kết hợp với toàn bài.
- Ở hai dòng đầu ta mới chỉ thấy cánh đồng bao la, chưa thấy cái hồn của cảnh. Đến hai dòng cuối, hồn của cảnh đã hiện lên. Đó chính là con người, là cô thôn nữ mảnh mai, nhiều duyên thầm và đầy sức sống.
- Bài 4 có thể là lời của chàng trai, người đã thấy cánh đồng mênh mông bát ngát và thấy cô gái với vẻ đẹp mảnh mai, trẻ trung, đầy sức sống. Chàng trai đã ngợi ca cánh đồng, ngợi ca vẻ đẹp của cô gái. Đây là cách bày tỏ tình cảm với cô gái của chàng trai.
- Có cách hiểu khác, cho rằng bài ca này là lời cô gái. Trước cánh đồng rộng lớn mênh mông, cô gái nghĩ về thân phận mình. Cô gái như "chẽn lúa đòng đòng" đẹp cái đẹp của thiên nhiên tươi tắn, trẻ trung, đầy sức sống,... nhưng rồi sẽ ra sao? Nỗi lo âu của cô gái thể hiện rõ nhất ở từ "phất phơ" và ở sự đối lập: "Nắng sớm thì đẹp nhưng cánh đồng thì rất rộng mà chẽn lúa thì nhỏ nhoi, vô định giữa một biển lúa không bờ. Chẽn lúa phất phơ trong cánh đồng quá rộng này cũng như dải lụa đào phất phơ giữa chợ, không biết số phận mình sẽ được an bài như thế nào?
1. Nghệ thuật
- Ngoài thể thơ lục bát, ở chùm bài ca này còn có thể thơ lục bát biến thể: câu không đủ 6 tiếng, câu lại có hơn 8 tiếng.
- Sử dụng các biện pháp tu từ.
2. Nội dung
Tình cảm chung được thể hiện trong 4 bài là tình yêu quê hương, đất nước và con người. Tình cảm đó được thể hiện qua việc ca ngợi và tự hào về những địa danh mang âm hưởng hào hùng của lịch sử, yêu thương những vùng đất mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, và tình yêu thương con người đối với nhau, trân trọng và quý mến nhau