Câu chủ đề: Nhân vật ếch ... quý giá.
Dẫn chứng:
Thứ nhất ...xung quanh.
Thứ hai .. xung quanh.
Thứ ba .. cạm bẫy.
Nhận xét: Ếch chính là .... tôn trọng.
Bởi thế mà ếch trở nên huênh hoang, kiêu ngạo. Khi thấy các con vật xung quanh đều bé nhỏ hơn, đều hoảng sợ vì tiếng kêu của mình, ếch tưởng trong thế giới này chỉ có mình là lớn lao hơn cả. Ếch nhìn trời từ dưới đáy giếng sâu nên tưởng như bầu trời chỉ bé bằng cái vung mà thôi. Chính điều đó khiến ếch nghĩ ếch là chúa tể muôn loài mà không biết rằng đó là cái nhìn thật thiếu hiểu biết. Ếch không biết rằng thế giới ngoài kia bao la vô cùng, cũng có rất nhiều những con vật, giống loài to lớn khác, bầu trời là vô biên chứ không hề nhỏ bé như ếch tưởng tượng. Cái nhìn hạn hẹp ấy khiến ếch không biết sợ ai mà sinh ra tự phụ. - Đỉnh điểm của sự kiêu căng, ngạo mạn chính là khi ếch ra khỏi giếng. Bởi không hề biết thế giới bên ngoài rộng lớn, nhiều điều lí thú nhưng cũng vô cùng nhiều cạm bẫy trong khi ếch thì chỉ là một con vật rất bé nhỏ nên ếch ta vẫn giữ thói cũ, đi lại nghênh ngang, cất tiếng kêu ồm ộp, nhâng nháo nhìn bầu trời không thèm để ý đến xung quanh. Tiếng kêu “ồm ộp” vốn dĩ là đặc trưng giống loài của ếch, cũng là âm thanh thể hiện uy quyền của ếch khi ở trong giếng. Ra khỏi giếng, đến một thế giới khác ếch vẫn tưởng chỉ có tiếng kêu của mình là lớn nhất và vẫn giữ sự ngạo mạn bằng tiếng kêu ấy. Cái nhìn “nhâng nháo” là cái nhìn thể hiện sự coi thường xung quanh, tự cho mình là hơn cả. Hơn thế nữa, ếch còn đi lại “nghênh ngang”, coi thế giới mới lạ kia là thế giới quen thuộc của chính mình. Và tất nhiên, những hành động đó đã dẫn tới hậu quả là ếch bị con trâu đi qua giẫm bẹp. Trả giá bằng chính mạng sống của mình là một sự trả giá rất đắt cho tầm nhìn hạn hẹp mà lại huênh hoang, kiêu ngạo. Kết cục ấy vừa khiến ếch trở nên đáng thương mà cũng vừa đáng trách. đâu là câu chủ đề ,dẫn chứng ,nhận xét
Câu chủ đề: Bởi thế mà ếch trở nên huênh hoang, kiêu ngạo.
Dẫn chứng:
Khi thấy ... hơn cả.
Ra khỏi giếng, đến một thế giới khác ... chính mình.
Nhận xét:
Trả giá .... đáng trách.
Ếch ta sống lâu ngày trong một cái giếng, xung quanh chỉ có một vài con vật bé nhỏ hơn nó, mỗi khi nó cất tiếng kêu ồm ộp đều khiến cua, ốc, nhái phải hoảng sợ. Như vậy có thể thấy môi trường sống của ếch là môi trường nhỏ hẹp, lại sống “lâu ngày” nên trở nên giới hạn về không gian, về các mối quan hệ và cả về tầm nhìn. Sống “lâu ngày” nên không gian ấy trở nên quen thuộc và nhàm - Có nhân xét gì về hoàn cảnh, công việc đó? chán, đơn điệu. Chính môi trường ấy dễ khiến cho người ta có cái nhìn hạn hẹp, dễ tự bằng lòng hoặc kiêu hãnh với chính mình đau là câu chủ đề,dẫn chứng ,nhận xét
Chính điều đó khiến ếch nghĩ ếch là chúa tể muôn loài mà không biết rằng đó là cái nhìn thật thiếu hiểu biết. Ếch không biết rằng thế giới ngoài kia bao la vô cùng, cũng có rất nhiều những con vật, giống loài to lớn khác, bầu trời là vô biên chứ không hề nhỏ bé như ếch tưởng tượng. Cái nhìn hạn hẹp ấy khiến ếch không biết sợ ai mà sinh ra tự phụ.đâu là dẫn chứng ,đâu là nhận xét
Dẫn chứng:
Ếch không biết rằng ... như ếch tưởng tượng.
Nhận xét:
Cái nhìn hạn hẹp .. tự phụ.
nhà văn đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc nào khi miêu tả con bạch tuộc tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó
Bài 5 . Cho đoạn văn: “Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách thích giang hồ với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trang, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp.”
a. Tìm trong đoạn văn câu đặc biệt, câu rút gọn?
b. Hai câu cuối sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng?
a.Câu đặc biệt:Đêm
Câu rút gọn: Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ.
b.Hai câu cuối sử dụng biện pháp nghệ thuật:Liệt kê
Tác dụng:
+Làm ngắn gọn,dễ hiểu
+Diễn đạt đầy đủ
+Làm phong phú hơn
Tóm tắt truyện đồng hào có ma
“...Đêm. Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách thích giang hồ với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn ta. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp…”
( Trích Ngữ Văn 7 tập 2)
Câu 1. Trong đoạn trích trên tác giả đã sử dụng thành công biện pháp tu từ liệt kê. Em hãy chỉ ra và nêu tác dụng của phép tu từ liệt kê đó.
Câu 2. Kể tên một văn bản mà em đã được học trong chương trình Ngữ Văn 6 có cùng thể loại với văn bản trên?
Mn giúp em 2 câu trên với ạ
1. Phép liệt kê: ''Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn ta.''
Tác dụng: Cho thấy sự đa dạng và phong phú của các loại đàn trong đêm nhạc
2. Văn bản Cô Tô, Cây tre Việt Nam, Lao xao
Nêu nhận xét về người cha trong chuyện bó đũa
Nhận xét là dạy chúng ta ở đời thì phải đoàn kết nếu ko có tinh thần đoàn kết sẽ bị như là từng que đũa người cha rút ra vậy
chứng minh thơ của chủ tịch HCM vừa mang nét cổ điển vừa mang nét hiện đại
#Tham khảo
Tập Nhật kí trong tù được sáng tác trong quãng thời gian đặc biệt nhạy cảm đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đó là thời điểm người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đày ải đi khắp các nhà lao. Vì vậy, trong tập nhật ký, có nhiều bài nói về chuyện đi đường, cảnh chuyển lao, khi sáng sớm, lúc chiều tối, khi đi thuyền, khi đi bộ...trong bất cứ hoàn cảnh nào thì bài thơ giải tù cũng làm ngời lên vẻ đẹp thơ Bác và vẻ đẹp tâm hồn Bác. Bài thơ Chiều tối thuộc trong số những bài thơ nói trên nhưng có một vẻ đẹp riêng. Đó là tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, lạc quan và nhân hậu. Bài thơ cũng thể hiện vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh mà nổi bật là sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại.
Ở bài thơ Chiều tối, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Tuy mang dáng dấp của những hình ảnh trong thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng thơ và nhân vật trữ tình lại hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên và cuộc sống con người.
Hai câu thơ đầu mở ra không gian là cảnh núi rừng khi chiều tối:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không"
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh được gợi lên với bút pháp ước lệ quen thuộc trong thơ cổ đồng thời lại nói lên được đúng hoàn cảnh của Bác, mang những nét vẽ hiện đại. Vẽ lên nền trời chiều đang chuyển hình ảnh cánh chim bay về rừng tìm chốn ngủ là bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ xưa. Trong thơ cổ khi viết về buổi chiều, các tác giả thường điểm xuyết bằng hình ảnh cánh chim để gợi nỗi buồn hiu quạnh, lấy không gian để gợi tả thời gian. Chúng ta từng bắt gặp cánh chim trong ca dao xưa: "Chim bay về núi tối rồi"; cánh chim bay mỏi trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi" hay cánh chim thoi thót trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: " Chim hôm thoi thót về rừng".
Tuy sử dụng bút pháp ước lệ của thơ cổ nhưng hai câu thơ đầu bài Chiều tối vẫn nói đúng hoàn cảnh riêng của Bác. Người đọc có thể hình dung cảnh người tù bị áp giải quan sát cảnh vật, ngẩng mặt lên trời nhận ra hình ảnh cánh chim bay mỏi mệt và chòm mây trôi ngang qua bầu trời. Cảnh phảng phất một nỗi buồn hiu quạnh. Điều này được thể hiện rõ trong nguyên bản chữ Hán: "Cô vân mạn mạn độ thiên không" (Một chòm mây đơn lẻ chậm chạp trôi ngang qua bầu trời). Bản dịch không lột tả được hai chữ "mạn mạn". Câu thơ dịch "chòm mây" có phần thanh thoát, không gợi được sự hiu quạnh của cảnh.
Nét vẽ hiện đại còn được thể hiện quan tâm trạng của người tù. Ở đây không phải là cánh chim bay bình thường mà là cánh chim bay mỏi mệt (quyện điểu), có thể có nhiều chòm mây nhưng khi đi vào thơ Bác chỉ còn lại chòm mây cô đơn. Dường như cánh chim cũng mỏi mệt sau một ngày bay đi kiếm ăn về rừng tìm nơi ngủ cũng như người tù mỏi mệt sau một ngày lê bước trên đường xa cần chỗ nghỉ chân. Chòm mây cô đơn như tâm trạng của con người nơi đất khách đang nhớ về quê hương. Vẻ đẹp tâm hồn Bác ở hai câu thơ đầu trước hết là lòng yêu thiên nhiên. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người cũng tìm đến thiên nhiên trong sự hòa hợp. Giữa cảnh và người có sự cảm thông hòa hợp.
Vẻ đẹp tâm hồn Bác còn là tấm lòng nhớ nước thương dân. Trong hai câu thơ đầu cảnh và tâm trạng đều phảng phất buồn. Buồn vì Người đang xa Tổ quốc, nhớ tới đồng chí đồng bào, bao công việc cách mạng đang chờ có Bác vậy mà Người cứ bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Tâm trạng ấy lại gặp cảnh núi rừng khi chiều tối không buồn sao được. Tâm hồn Bác mang vẻ đẹp của một tấm lòng luôn gắn bó với cuộc đời. Hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ Bác gợi ta nhớ đến thơ Lý Bạch đời Đường:
"Chim bầy vút bay hết
Mây lẻ đi một mình"
(Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn)
Cánh chim trong thơ Đường của Lý Bạch bay vút vào không gian, như tan biến vào cõi vĩnh hằng. Cánh chim trong thơ Bác không bay đi hết, nó chỉ chuyển trạng thái từ bay sang nghỉ để rồi lại tiếp tục cái vòng tuần hoàn của sự sống. Một con người luôn hướng tới cuộc sống thì không chỉ cảm nhận cảnh núi rừng hiu quạnh mà còn nhận ra nơi xóm núi vẻ đẹp của cuộc sống con người. Chính vì vậy, hai câu thơ sau có sự chuyển hướng bất ngờ mà vẫn tự nhiên:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Cảnh trong thơ Bác vừa mang vẻ đẹp cổ điển, vừa mang nét vẽ hiện đại. Trong thơ xưa, dưới cánh chim ngàn mây nổi thường xuất hiện hình ảnh những ẩn sĩ, những đạo sĩ. Trong thơ xưa, cảnh chiều tối vẫn thấp thoáng bóng người:
"Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà"
(Qua đèo ngang- Bà Huyện Thanh Quan)
Hay trong thơ của Liễu Tông Nguyên vẫn có một ông lão ngồi một mình câu cá: "Độc điếu Hàn Giang tuyết". Trong thơ Bác tuy cũng xuất hiện những cô sơn nữ nhưng là người lao động với công việc hàng ngày tuy vất vả mà vẫn ấm cúng. Hình ảnh ấy đã mang đến cho bức tranh cuộc sống nơi xóm núi một nét vẽ hiện đại. Hình ảnh cô em xóm núi xay ngô tối đã đem đến cho bức tranh buổi chiều tối một vẻ đẹp khỏe khoắn lạc quan. Đặc biệt là hình ảnh "lò than rực hồng" đã trở thành trung tâm, tâm điểm của bức tranh. Chính hình ảnh này đã làm cho bức tranh cuộc sống không còn u tịch, tĩnh lặng như những bức họa về cuộc sống trong thơ cổ. Chữ "hồng" đã trở thành nhãn tự của bài thơ. Một chữ "hồng" mà đem đến ánh sáng, hơi ấm, niềm vui để xua tan bóng đêm, không khí lạnh và nỗi buồn hiu quạnh. Bút pháp nghệ thuật của Bác ở hai câu cuối có một nét đặc sắc rất đáng lưu ý. Trong nguyên văn chữ Hán Bác không dùng từ nào nói về tối nhưng vẫn gợi lên được thời gian chuyển từ chiều đến tối một cách tự nhiên. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật dùng ánh sáng để gợi tả bóng tối. Lò than rực hồng từ trước nhưng khi trời còn sáng nhìn chưa rõ, khi bóng đêm buông xuống thì ánh lửa lò than bỗng rực rỡ hẳn lên. Bản dịch đã đưa thêm vào một chữ tối làm mất đi khá nhiều vẻ đẹp của thơ Bác. Giữa câu 3 và câu 4 có những cụm từ lặp lại theo hình thức đảo: "ma bao túc" và "bao túc ma hoàn". Hình thức này đã tạo nên kết cấu vòng tròn giữa hai câu thơ, gợi lên sự cảm nhận về vòng quay đều đều của chiếc cối xay ngô và từ vòng quay ấy gợi lên sự luôn chuyển của thời gian.
Trước cảnh cuộc sống con người nơi xóm núi, nhà thơ dạt dào cảm xúc. Qua cảm xúc của Bác người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Vẫn là vẻ đẹp của tấm lòng yêu đời nhưng ở hai câu thơ sau có điều thật cảm động. Hai câu thơ ghi lại cảnh cuộc sống gia đình nơi xóm núi điều đó chứng tỏ trên bước đường hoạt động cách mạng, một con người hi sinh tất cả vì dân vì nước thì trong trái tim vẫn có một khoảng tâm trạng dành cho tình cảm gia đình. Về tấm lòng yêu đời của Bác ở hai câu thơ cuối, Hoài Thanh đã nhận xét: " Một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn, vất vả mà vẫn ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta nhưng thường nó vẫn trôi qua đi. Không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được". Tâm hồn Bác còn là tâm hồn lạc quan nhân hậu. Hình ảnh lò than rực hồng là cảnh thực nhưng thể hiện tấm lòng lạc quan của Bác. Nếu một tâm hồn không hướng về ánh sáng thì không thể nào ghi lại được hình ảnh ngọn lửa lò than rực hồng đẹp đến thế, sáng đến thế đưa vào thơ.
Bài thơ viết ở thời điểm khi chiều tối mà như ta đã nói đằng sau lưng là một ngày đi đường vất vả có khi tới 53 cây số một ngày, trước mặt lại là những gian lao nguy hiểm mới đang chờ, lại đói rét, lại muỗi rệp. Thơ viết trong hoàn cảnh ấy nếu xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân thì chỉ có thể là buồn. Nhưng ở bài thơ Chiều tối, thơ Bác lại chuyển từ buồn sang vui. Điều này chỉ có thể giải thích những vui buồn sướng khổ của Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ cảnh ngộ cá nhân mà còn xuất phát từ cuộc sống của người khác. Bác đã quên cảnh ngộ của người tù để vui với niềm vui cuộc sống nơi xóm núi. Vì vậy, có thể nói bài thơ Chiều tối đã thể hiện một tấm lòng nhân đạo tới mức quên mình.
Như vậy, bài thơ chỉ có bốn câu song đã thể hiện rõ nét chất thép trong vẻ đẹp tâm hồn Bác. Đồng thời, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại đã mang đến cho bài thơ một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại. Đây chính là một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp nghệ thuật thơ chữ Hán Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, thơ Bác không xa vào sự cũ kĩ về bút pháp, sự đơn điệu về hình ảnh, sự chuyển tải hiệu quả những biểu hiện về vẻ đẹp tâm hồn Bác tuy ở hoàn cảnh gian khổ tù đày nhưng Người luôn hướng về thiên nhiên và cuộc sống con người với sự đồng cảm, đồng điệu và quên đi hoàn cảnh riêng của mình. Đó chính là tinh thần thép vượt lên trên hoàn cảnh tù đày của bậc "Đại nhân- Đại trí- Đại dũng" Hồ Chí Minh.