Bài 19. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Thời kì ở miền Tây Thanh Hóa (1418 - 1423)

1. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa

- Lê Lợi là một hào trưởng có uy tín ở vùng Lam Sơn (Thanh Hóa). Trước cảnh nước mất nhà tan, ông đã chiêu tập nghĩa sĩ, bí mật liên lạc với các hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn là căn cứ cuộc khởi nghĩa.

Lê Lợi
Lê Lợi

- Đầu năm 1416 bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa được thành lập gồm 19 người do Lê Lợi đứng đầu làm lễ thề ở Lũng Nhai nguyện cùng sống chết có nhau, quyết đánh giặc cứu nước.

- Ngày 7/2/1418, Lê lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương. Lam Sơn nằm tả ngạn sông Chu, nối liền giữa đồng bằng và miền núi, có địa thế hiểm trở.

@1544121@

2. Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân ở miền Tây Thanh Hóa

- Giữa năm 1418 quân Minh vây quét Chí Linh, quyết bắt Lê Lợi. Lê Lai đã cải trang thành lê Lợi chỉ huy toán quân cảm tử và bị giết chết - sự kiện "Lê Lai liều mình cứu chúa”.

- Cuối năm 1421 quân Minh huy động 10 vạn lính vây quét Lam Sơn, Lê Lợi rút lên núi Chí Linh, rơi vào tình trạng vô cùng khó khăn, thiếu lương thực trầm trọng, đói, rét.

- Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hòa, quân Minh chấp thuận để dụ hòa Lê Lợi và làm mất ý chí chiến đấu của nghĩa quân. Còn nghĩa quân tạm hòa để có thời gian củng cố lực lượng và tránh cuộc bao vây của địch sau đó lại trở về Lam Sơn.

- Cuối năm 1424, quân Minh mua chuộc Lê Lợi thất bại nên chuẩn bị tấn công Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn mới.

Thời gian

Sự kiện

1418

Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn.

Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 1.

1421

Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần thứ 2.

1423

Lê Lợi quyết định hòa hoãn với quân Minh.

1424

Quân Minh mua chuộc Lê Lợi không thành, chuẩn bị tấn công nghĩa quân Lam Sơn.

Nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh lần 3.

@1544240@

II. Giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa và tiến quân ra Bắc (1424 - 1426)

1. Giải phóng Nghệ An (1424)

- Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, nghĩa quân đã “chuyển quân vào Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông, rồi dựa vào đấy mà quay ra đánh lấy Đông Đô”.

- Nghĩa quân đánh thắng trận Đa căng, Trà Lân, Khả Lưu, Bồ Ải, giải phóng phần lớn Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa chỉ trong vòng một tháng.

- Sau đó, nghĩa quân đã rút vào Nghệ An để thoát thế bị bao vây, mở rộng địa bàn hoạt động và kiểm soát của nghĩa quân trên phạm vi rộng lớn là Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa.

@34036@

2. Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (1425)

- Tháng 8/1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân chỉ huy quân từ Nghệ An tiến vào giải phóng Tân Bình (Quảng Bình),Thuận Hóa (Thừa Thiên Huế).

- Từ tháng 10/1424 đến tháng 8/1425 một vùng rộng lớn được giải phóng từ Thanh Hóa đến Hải Vân, với khí thế áp đảo, nghĩa quân chuẩn bị tiến ra Bắc.
- Trong khi đó, quân Minh phải rút vào các thành lũy để cố thủ.

3. Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động cuối năm 1426

- Tháng 9/1426 nghĩa quân tiến ra Bắc bằng 3 đạo quân:

+ Đạo thứ nhất tiến ra giải phóng Tây Bắc chặn viện binh địch từ Vân Nam sang.

+ Đạo thứ hai giải phóng hạ lưu sông Hồng, và chặn đường rút quân từ Nghệ An về Đông Quan, và chặn viện binh từ Quảng Tây sang.

+ Đạo thứ ba tiến thẳng ra Đông Quan.

Lược đồ đường tiến quân ra Bắc của nghĩa quân Lam Sơn
Lược đồ đường tiến quân ra Bắc của nghĩa quân Lam Sơn

- Nhiệm vụ của ba đạo quân: tiến sâu vào vùng chiếm đóng của địch bao vây đồn địch, giải phóng đất đai, thành lập chính quyền mới, chặn viện binh địch. 

- Được sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân đã giành chiến thắng nhiều trận, buộc quân Minh phải rút vào thành Đông Quan để cố thủ.

Thời gian

Sự kiện

1424

Giải phóng Nghệ An

1425

Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa

1426

Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động

III. Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng (cuối năm 1426 - cuối năm 1427)

1. Trận Tốt Động - Chúc Động (cuối năm 1426)

a. Chuẩn bị

- Quân Minh: tháng 10/1426, 5 vạn viện binh do vương Thông chỉ huy đã đến Đông Quan.

- Nghĩa quân Lam Sơn: đặt phục binh ở Tốt Đông, Chúc Động.

b. Diễn biến

- Ngày 7/11/1426 Vương Thông quyết định tấn công Cao Bộ (Chương Mĩ - Hà Tây).

- Quân ta tấn công từ mọi phía.

Diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động
Diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động

c. Kết quả

- 5 vạn quân Minh tử thương, Vương Thông chạy về Đông Quan.

d. Ý nghĩa

- Chiến thắng đã tạo điều kiện cho quân Lam Sơn vây hãm thành Đông Quan, giải phóng nhiều châu, huyện.

- Quân Minh suy yếu, rơi vào thế bị động.

2. Trận Chi Lăng - Xương Giang (tháng 10/1427)

a. Chuẩn bị

- Quân Minh: 15 vạn viện binh từ Trung Quốc kéo vào nước ta.

- Nghĩa quân Lam Sơn: tập trung lực lượng tiêu diệt quân Liễu Thăng trước.

b. Diễn biến

- Tháng 10/1427, 10 vạn viện binh của nhà Minh chia làm hai đạo, một đạo do Liễu Thăng , một đạo khác do Mộc Thạnh chỉ huy đã tiến vào nước ta.

- Ngày 8/10/1427 Liễu Thăng dẫn quân vào nước ta; bị phục kích và bị giết ở ải Chi Lăng.

- Lương Minh lên thay Liễu Thăng dẫn quân xuống Xương Giang liên tiếp bị phục kích ở Cần Trạm, Phố Cát.

- Biết Liễu Thăng tử trận, Mộc Thạnh vội vã rút quân về nước.

Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang

c. Kết quả

- Liễu Thăng, Lương Minh bị tử trận, hàng vạn tên địch bị chết.

- Vương Thông xin hoà, mở hội thề Đông Quan, rút khỏi nước ta.

- Ngày 3/1/1428, toán quân cuối cùng của Vương Thông rút khỏi nước ta, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi, nước ta sạch bóng quân thù.

@82629@

3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử

a. Nguyên nhân thắng lợi

- Truyền thống yêu nước, tinh thần quyết chiến của nhân dân ta, đã tham gia, giúp đỡ cuộc khởi nghĩa vượt qua mọi khó khăn.

- Sự lãnh đạo tài tình, mưu lược của bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi... đã có những kế sách đúng đắn để đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi, đã biết kết hợp sức mạnh quân sự và ngoại giao để chiến thắng kẻ thù. Những người lãnh đạo đã biết dựa vào dân, từ cuộc khởi nghĩa phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

@1544719@

b. Ý nghĩa lịch sử

- Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của nhà Minh, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, mở ra thời kì phát triển mới của xã hội, đất nước, dân tộc Việt Nam - thời Lê Sơ.