Hướng dẫn soạn bài Phú sông Bạch Đằng - Trương Hán Siêu

HT
Xem chi tiết
LH
Xem chi tiết
HB
Xem chi tiết
MN
4 tháng 2 2021 lúc 20:02

Tham khảo nhé:

Cứ như thế, nhân vật "khách" bước ra mang đầy cảm hứng thơ, cảm hứng của một vị Học Tử Hách hải hồ:

Khách có kẻ:Giương buồm giong gió chơi vơi,…Trường chừ thú tiêu dao

Qua hàng loạt các hình ảnh đậm chất ước lệ, có tính phóng đại giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm gợi lên cả không gian, thời gian đều rộng mở. Lại thêm các từ láy chơi vơi, mải miết diễn tả thật đậm nét tâm hồn của một bậc mặc khách, tao nhân đang vi vu cùng với đất trời, thỏa chí mà phóng khoáng, ngao du. Khách xuất hiện như thể mang theo một giấc mộng hải hồ, đắm mình cùng thiên nhiên. Kẻ lãng du ấy kéo theo cả hàng loạt những địa danh, những phong cảnh đẹp của Trung Hoa vốn chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng… nơi có người đi, đâu mà chẳng biết, chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều. Có cả một trình độ hiểu biết sâu rộng hay là cách để đấng mặc khách ấy thực hiện khát vọng thỏa cái tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết? Sao cũng phải, bởi trước hết cái trang trí ấy mang trong mình tâm thức của một bậc thi nhân đầy lãng mạn, ưa thích ngao du. Cho nên việc học Tử Trường đâu có phải học cách của một sử ký gia, mà là học thú tiêu dao, cái thú thưởng ngoạn để giữa dòng chừ buông chèo không nỡ bỏ lỡ cảnh đẹp nên thơ, lại thêm mở mang hiểu biết.

Bình luận (0)
DL
Xem chi tiết
MN
24 tháng 1 2021 lúc 20:48

Tham khảo:

Phân tích nhân vật bô lão -Nhân vật bô lão ở đây có thể là người dân địa phương hoặc là những nhân vật hư cấu - xét về các chiến công trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão > quân đội nhà Trần : oai hùng, mang khí thế mạnh mẽ, sẵn sàng xông trân > bọn giặc: kiêu căng, huênh hoang, mang dã tâm cướp nước ta nhưng đã thất bại thảm hại. - qua lời bình các bô lão ta thấy yếu tố con người rất quan trọng trong việc tạo nên cuộc chiến thắng. mượn một số điển tích điển cô trong lịch sử để ca ngợi chiến công của quân ta " đây là nơi chiến địa buổi.......... cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng thao......" - ca ngợi trần quốc tuấn có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên. - Lời ca của các bô lão như bản tuyên ngôi chân lý " những người bất nghĩa tiêu vong Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"

Bình luận (0)
H24
24 tháng 1 2021 lúc 19:30

Vai trò của các bô lão:

Các bô lão là người dân địa phương về con sông nơi đây là người được nghe được chứng kiến những khoảnh khắc lịch sử hào hùng nhất để kể cho con ông cha ta đã chiến đấu hào hùng như thế nào.Nhân vật khách người bộc lộ tâm tình mức độ tâm trạng của nhân vật khác

Chiến tích sông Bạch Đằng:

 Hồi tưởng về trận “ Ngô chúa phá Hoằng Thao”, “ Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”  qua đó thể niệm niềm hào hùng tự hào về một đất nước dám đứng lên đánh đuổi giặc xâm lăng.

Thái độ giọng nói của họ:

Thái độ, giọng điệu các bô lão : Thái độ, giọng điệu : đầy nhiệt huyết, tự hào, là cảm hứng của người trong cuộc. Lời kể : ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn khái quát được đầy đủ, sinh động không khí của trận đánh, chiến trường. Qua lời bình luận của các bô lão : yếu tố con người là yếu tố quyết định, giữ vai trò quan trọng nhất làm nên chiến thắng Bạch Đằng.
Bình luận (0)
TK
Xem chi tiết
NH
17 tháng 3 2017 lúc 22:13

Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí- Trần.Trương Hán Siêu (?- 1354) là nhà văn đời Trần, quê ở Ninh Bình. Thời trẻ, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, là người có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trần, là người học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, được các vua Trần tôn là thầy, được các nho sĩ đời sau xem là một trí thức nho học chân chính của thời Thịnh Trần. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.

Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.

Mở đầu bài phú,tác giảbày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước.


“Khách có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.


Tác giảđã liệt kê 1 loạt những địa danh nổi tiếng,những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như:Vũ Huyệt,Cửu Giang,Ngũ Hồ, Tam Ngô,Bách Việt... Đây là cách nói ước lệ tượng trưng tác giả bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước ta.
Ở phần tiếp theo,ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng qua lời miêu tả của nhân vật khách một bức tranh sinh động,giản dị:


“Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc
Phong cảnh ba thu.”


Thông qua 1 loạt những từ láy gợi hình,kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng.Tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ,bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước 1 nhân chứng ls khi nhớ về quá khứ oanh liệt.


“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”


Hơn thế nữa,ta còn thấy được hào khí của quân ta trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình:


“Thuyền bè muôn đội,tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.”

“Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”


Qua đó,ta thấy được những chiến công vĩ đại ấy được kể bằng giọng văn gấp gáp,khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng,mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.
Từ đó,tác giảcòn bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi:


Quả là:Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”


Theo các bô lão,thì nhân dân ta chiến thắng không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn có nhiều người tài.1 trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Cuối cùng,tg kết thúc bài phú bằng 2 lời ca. Đầu tiên là lời của các bô lão :


“Sông Đằng 1 dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”


Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được 1 triết lý vững chắc:người bất nghĩa sẽ bị diệt vong,còn anh hùng thì sẽ được lưu danh muôn thuở
Không những thế, đến đây,khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng:


“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”


Tác giảđã ca ngợi sự anh minh của vua Trần-là người có đức cao,luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân.Như vậy,ta có thể thấy được nguyên nhân thắng lợi của quân ta phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,trong đó vẫn không thể thiếu được những nhân tài và người lãnh đạo có đức cao luôn biết lo cho dân,cho nước…


Qua những hoài niệm về quá khứ, “Bạch Đằng giang phú” đã thể hiện lòng yêu nước,niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất,truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam.Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò,vị trí của con người trong lịch sử.
Nhìn trở lại toàn bộ bài phú,ta thấy “Bạch Đằng giang phú”là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã kể,miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng,thiên nhiên 1 cách sinh động,chân thật,có tính trữ tình cao,xen lẫn với lời kể là những cảm xúc,những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc,giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài,phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.Với nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu... mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc.
Đây là tác phẩm không chỉ nổi tiếng thời Trần mà còn là 1 trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay vào bậc nhất nước ta thời trung đại.Bài phú chứa chan lòng tự hào ,vừa đọng 1 nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc. Sau khi đọc xong tác phẩm,ta có thể khẳng định rằng “Phú sông Bạch Đằng” là đình cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại VN.

Bình luận (0)
SK
8 tháng 1 2020 lúc 17:28

Nhắc đến triều đại nhà Trần, ta không thể không nhắc đến một nhân vật lớn, nhân vật có tầm ảnh hướng sâu sắc đến nhân dân là Trương Hán Siêu. Ông là một người có trình độ học vấn vô cùng sâu rộng, uyên bác, lại trải qua những bốn đời vua nhà Trần là Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông và cả hai cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược, ông đã đóng góp rất nhiều cho nhà Trần, được các vị vua thời này tôn kính như một bậc thầy.

Trương Hán Siêu cũng là người biên soạn nhiều tác phẩm nổi tiếng, là những áng văn bất hủ mỗi khi nhắc lại. Đó là Bạch Đằng Giang phú, Linh tế thập kỷ, Quang Nghiêm Tự bi văn… Năm 1308, ông được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ ở đời vua Trần Anh Tông. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông giữ chức hành khiển, làm Môn hạ hữu ty lan tông ở đời Trần Hiến Tông năm 1339 . Và đến năm 1342, vào đời vua Trần Dụ Tông thì ông giữ chức Tả ty lang trung kiêm Kinh lược. Vào tháng 11 năm 1353, Trương Hán Siêu xin cáo bệnh về quê nhưng chưa kịp đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua đã truy tặng cho ông các chức danh lần lượt là hàm thái bảo và thái phó. Năm 1972 được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám. Trong suốt cuộc đời của mình, Trương Hán Siêu đã nhiều lần được giữ những chức vụ quan trọng và đóng góp đáng kể cho đất nước. Kể cả cho đến khi ông mất thì vua và các quan trong triều cũng vô cùng đau xót, truy tặng cho ông những danh huy chương đáng giá. Đặc biệt, việc Trương Hán Siêu được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám sau khi ông mất cho thấy sự coi trọng của quân vương đối với ông. Vai trò của Trương Hán Siêu đối với đất nước được ví như những bậc hiền triết thời xưa.

Những tác phẩm của Trương Hán Siêu thường là những áng văn bất hủ, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc. Một trong những nét điển hình cho phong cách của Trương Hán Siêu là cái nhìn về lịch sử, mang dấu ấn hoài niệm, hoài cổ nhưng vẫn đầy trữ tình. Và bài Bạch Đằng Giang Phú (Phú sông Bạch Đằng) chính là một tác phẩm minh chứng cho điều này.

Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi, cuộc sống tiếp diễn bình thường thì 50 năm sau, Trương Hán Siêu sáng tác bài Phú sông Bạch Đằng, bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của tác giả về một thời kỳ lịch sử vàng son, chói lọi của dân tộc. Sông Bạch Đằng là chứng nhân lịch sử, cùng đồng hành với những sự kiện nổi tiếng như: Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 938 của Ngô Quyền, Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Tác phẩm được viết theo thể phú, một thể văn xuất phát từ Trung Quốc. Thể loại này thường được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi xen lẫn văn vần. Nội dung kể về những sự việc khách quan trong cuộc sống, từ những sự vật, những phong tục, tập quán…. Về nghệ thuật của tác phẩm thì đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, đỉnh cao nhất của thể loại thơ phú. Bằng tài năng tả cảnh, bút pháp trữ tình đan xen giọng kể mang tính sử thi của tác giả, con sông Bạch Đằng đã hiện lên với những chiến tích lịch sử oanh liệt, hào hùng. Qua đó mà ta thấy thêm tự hào về lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu nước, nỗi niềm hoài cổ của tác giả.

Đoạn trích Phú sông Bạch Đằng được chia làm bốn phần. Phần 1 là những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng của người khách:

“Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Ði cho biết đây
Ði cho biết đó

Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Ðại Thần
Sang bến Ðông Triều
Ðến sông Bạch Ðằng
Ðủng đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu”

Tác giả đã hóa thân vào nhân vật khách trong một tâm thế dạo chơi, thưởng thức phong cảnh của đất nước. Tác giả đã nêu ra những địa danh của Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng… và cả những địa danh của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô…. Cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng cùng với lòng tự hào, tình yêu của Trương Hán Siêu đối với đất nước.

Phần hai nói về những chiến công lịch sử của sông Bạch Đằng được thuật lại qua lời kể của các bô lão:

“Bên sông bô lão, hỏi ý ta sở cầu?

Có lẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,

Vái ta mà thưa rằng:

Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo.

Đương khi ấy:

Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới.

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến lũy bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi!

Thế nhưng: Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối!

Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù không rửa nổi!

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.”

Thái độ của các bô lão đối với nhân vật khách thể hiện sự hiếu khách và nhiệt tình. Họ là những người đại diện cho cả một thế hệ đi trước, những người chứng kiến các cột mốc chói lọi khi xưa. Những lời kể của các bô lão về trận đánh làm hiện ra sự thất bại nhục nhã của quân giặc và chiến thắng oanh liệt của quân dân ta.

Phần 3 là lời nhận xét, bình luận về chiến công trên sông Bạch Đằng:

“Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Lưu Thủy: Như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

Đến bên sông chừ hổ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.”

Lời bình luận của các bô lão về những chiến tích lịch sử gợi ra nguyên nhân thắng lợi của dân tộc. Đó là nhờ vào việc hội tụ đầy đủ các yếu tố từ con người, thời điểm, hoàn cảnh....

Và phần cuối cùng, tác giả thể hiện sự ca ngợi con người với những chiến công và tầm vóc của họ:

“Rồi vừa đi vừa ca rằng:

Sông Đằng một giải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

Anh minh hai vị Thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thủa thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”

Lời khẳng định của tác giả cho thấy đường lối tài tình của nhà Trần. Tác giả khẳng định vai trò to lớn của con người trong cuộc chiến, thể hiện niềm tự hào, lời ngợi ca của dân tộc đối với những con người trong lịch sử, họ đã dựng nước và giữ nước bằng cả tấm lòng yêu quê hương của mình.

Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với riêng nhà Trần. Nó còn có ý nghĩa và giá trị đối với nền văn học trung đại Việt Nam và xa hơn là còn được lưu giữ đến tận hiện tại. Qua đó thấy được tài năng của tác giả và thêm hiểu biết về lịch sử của đất nước ta. Đọc tác phẩm, ta thấy trân trọng những giá trị mà người xưa để lại, từ đó mà không ngừng nỗ lực cống hiến cho đất nước để đất nước ngày càng phát triển, vươn xa ra thế giới.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
H24
2 tháng 2 2020 lúc 15:15

Trương Hán Siêu là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải qua bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông). Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy.

Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển. Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí – Trần.

Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.

Mở đầu bài phú, tác giả bày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước.

“Khách có kẻ

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.”

Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những thắng cảnh đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như: Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… Đây là cách nói ước lệ tượng trưng nhằm bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước của Trương Hán Siêu.

Ở phần sau, qua lời nhân vật khách, ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng là một bức tranh sinh động, giản dị:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu

Nước trời một sắc

Phong cảnh ba thu.”

Thông qua những từ láy gợi hình (bát ngát, thướt tha), kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng. Tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử khi hoài niệm về quá khứ oanh liệt.

“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Hơn thế nữa, ta còn thấy được hào khí của quân đội trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình:

“Thuyền bè muôn đội,tinh kỳ phấp phới,

Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.”

“Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”

Những chiến công vĩ đại của quân ta được kể bằng giọng văn gấp gáp, khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng, mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.

Tác giả còn đưa ra luận bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi:

“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”

Các bô lão đánh giá chiến thắng này có được không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn do có nhiều người tài. Một trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú bằng lời ca của hai nhân vật khách và các bô lão. Đầu tiên là lời của các bô lão:

“Sông Đằng 1 dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”

Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được một triết lý vững chắc: người bất nghĩa sẽ bị diệt vong,còn anh hùng thì sẽ được lưu danh muôn thuở

Nhân vật khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình.

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”

Tác giả đã ca ngợi sự anh minh của vua Trần – là người có đức cao, luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân. Như vậy, ta có thể thấy được nguyên nhân thắng lợi của quân ta phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vẫn không thể thiếu được những nhân tài và người lãnh đạo có đức cao luôn biết lo cho dân, cho nước.

Với cảm hứng và hoài niệm về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

Bạch Đằng giang phú được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã vận dụng thủ pháp kể, miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng sinh động, chân thật, giàu chất trữ tình. Đồng thời người đọc còn cảm nhận được những cảm xúc, những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc, giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài, phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.

Đây là tác phẩm không chỉ nổi tiếng thời Trần mà còn là một trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay vào bậc nhất nước ta thời trung đại. Bài phú chứa chan lòng tự hào, cảm hứng ngợi ca dân tộc vừa lắng đọng nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc. Đọc bài phú người đọc như được sống lại những năm tháng hào hùng của một thời kì lịch sử, gắn liền với chiến công vĩ đại trên sông Bạch Đằng, từ đó thêm yêu mến, tự hào về quê hương đất nước con người Việt Nam.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
TL
Xem chi tiết
TT
Xem chi tiết
ST
14 tháng 1 2018 lúc 20:47

bn ơi câu hỏi này đã trả lời r giờ mình trả lời lại nhé

Câu 6. Phát biểu về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài phú

(1) Giá trị nội dung: Bài Phú sông Bạch Đằng thông qua việc tái hiện lại không khí chiến thắng hùng tráng của những trận đánh trên sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, đồng thời cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc tác giả đề cao vai trò, vị trí con người

(2) Giá trị nghệ thuật: Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích có chọn lọc, kết hợp chữ tình là sự sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” và nhân vật “các bô lão”, một nhân vật đại diện cho hiện tại và một nhân vật là chứng nhân lịch sử, đồng thời trong mỗi nhàn vật đểu có sự phân thân của cái tôi tác giả, một cái tôi tráng sĩ có tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng ưu ái đối với lịch sử, với đất nước.

Bài Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong nền văn học Việt Nam thời trung đại.



Bình luận (0)
TP
14 tháng 1 2018 lúc 20:51

Nội dung
- Bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu làm theo lối phú cổ thể - loại phú có từ trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết bằng thơ.
- Phú sông Bạch Đằng là niềm tự hào về truyền thống yêu nước, về những chiến công lịch sử thông qua những hoài niệm sâu sắc về quá khứ oai hùng. Đồng thời, nó cũng là niềm tự hào về truyền thống đạo lí nhân nghĩa, về tư tưởng nhân văn của dân tộc thông qua việc đề cao vai trò, vị trí và đức độ của con người.
- Nhà thơ bộc lộ tư tưởng nhân văn sâu sắc tiến bộ: vinh và nhục, thắng và bại, tiêu vong và trường tồn,...
- Niềm tự hào, tự tôn dân tộc của bài văn được tạo ra bởi những hình ảnh nghệ thuật phóng khoáng, giàu sức gợi kết hợp trong những câu văn vừa hào sảng, vừa vang vọng vừa đậm chất suy tư.

Nghệ thuật
- Cách miêu tả khái quát, ước lệ kết hợp với tả thực trong đoạn mở đầu:
- Ước lệ: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng; sóng kình, muôn dặm, đuôi trĩ, ba thu,…
- Cảnh thực: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, bờ lau san sát, bến lách đìu hiu,…
- Thủ pháp liệt kê trùng điệp được sử hiệu quả.
- Miêu tả không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn: “giương buồm giong gió…, lướt bể chơi trăng…; sớm gõ thuyền…, chiều lần thăm…”
- Làm nổi bật những kì tích: “Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã - Cũng là bãi đất xa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”; “Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,…”
- Các hình ảnh đối nhau diễn tả không khí bừng bừng chiến trận
(“Thuyền bè muôn đội tinh kì phấp phới – Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”), hay để miêu tả thế giằng co quyết liệt (“ánh nhật nguyệt chừ phải mờ – Bầu trời đất chừ sắp đổi”).
- Về nghệ thuật chọn lọc hình ảnh, sử dụng điển tích
Tác giả đã lựa chọn hình ảnh, điển tích diễn tả nổi bật sự thất bại của quân giặc, khẳng định một cách trang trọng tài trí của vua tôi nhà Trần:- ”
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay – Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”-”Hội nào bằng hội Mạnh Tân, có lương sư họ Lã – Trận nào bằng trận Dục Thuỷ, có quốc sĩ họ Hàn.”
- Vần trong đoạn 1 và 2:
- Vần lưng: vơi – chơi, lâu - đâu
- Vần chân: Việt – biết – thiết
- Vần gián cách: nhiều – Triều – chiều, đối - đổi – dối – lối – nổi, Hàn – nhàn – chan.
- Ngôn ngữ tráng lệ, giàu hình ảnh; tác giả sử dụng điển tích, điển cố rất tài tình

Bình luận (0)
NA
Xem chi tiết
NN
5 tháng 1 2018 lúc 8:22

Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, phủ Yên Khánh, nay thuộc phường Phúc Thành, thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan suốt bốn đời vua Trần, từ triều đại Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông đến triều đại Trần Dụ Tông. Vì tính tình cương trực và có học vấn uyên thâm nên Trương Hán Siêu được các vua Trần tin cậy và nhân dân kính trọng. Sau khi qua đời, ông được thờ ở Văn Miếu, Hà Nội.

Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua đời hậu Trần mải mê với chiến thắng của cha ông, chỉ lo ăn chơi, hưởng thụ mà lãng quên trách nhiệm chấn hưng đất nước. Trong một dịp du ngoạn Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy đổ ra biển nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, di tích lịch sử lừng danh, nơi quân ta đã hai lần đánh tan quân xâm lược Mông - Nguyên, Trương Hán Siêu vừa nhớ tiếc các bậc anh hùng xưa, vừa cảm khái, tự hào mà viết nên bài Phú sông Bạch Đằng bằng chữ Hán. Tác phẩm này được đánh giá là hay vào bậc nhất trong văn chương thời trung đại.
Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Bài phú vừa chứa chan niềm tự hào dân tộc, vừa thấm thía nỗi niềm hoài cổ, vừa thể hiện triết lí về sự biến thiên và xoay vần của Tạo hoá.
Bài phú là loại phú cổ thể mà đặc điểm giống như một bài ca dài, tản văn và vận văn đan xen với nhau. Nhân vật khách độc thoại và đối thoại với các vị bô lão bên sông. Hai đoạn thơ lục bát đóng vai trò kết thúc bài phú.

Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.

Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình :

Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Cái tráng chí bốn phương được thể hiện qua nghệ thuật liệt kê các địa danh nổi tiếng. Loại địa danh thứ nhất có tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình : Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt...

Loại thứ hai là những địa danh quen thuộc của đất nước mà tác giả đã từng đặt chân đến như : cửa Đại Than,... bến Đông Triều,... sông Bạch Đằng... Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét :

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ:


Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !

Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Khách đang đắm chìm trong tâm trạng hoài niệm thì các bô lão từ xa đi tới làm cho khách giật mình sực tỉnh trở về với hiện tại. Trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng năm xưa được các bô lão kể lại cho khách nghe một cách hào hứng.

Nếu như ở đoạn 1, khách chính là tác giả thì ở đoạn 2, các bô lão là hình ảnh tập thể, xuất hiện nhằm tạo ra vẻ tự nhiên của một cuộc trò chuyện. Đây có thể là những người dân địa phương mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh, cũng có thể là nhân vật tác giả hư cấu để bày tỏ tâm trạng của mình một cách khách quan hơn.
Bằng thái độ nhiệt tình và hiếu khách, các bô lão kể cho khách nghe về chiến công Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, về trận Ngô chúa phá Hoằng Thao, là những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trên sông Bạch Đằng.

Các trận đánh được tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều đó cho thấy thời ấy dân tộc ta luôn phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước nhiều lúc lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc.
Các bô lão kể lại diễn biến của từng trận đánh. Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng :

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối
.

Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí : quân dân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa ; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt :


Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.


Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ, được đặt trong thế đối lập : nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa.
Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được :


Kìa :
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi !

Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên - một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ :


Thế nhưng :
Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối !


Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc :


Khác nào khi xưa :
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.


Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc.

Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời:


Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi !
Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.


Hình ảnh: Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng.

Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép.
Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng, chỉ rõ nguyên nhân ta thắng, địch thua :


Tuy nhiên : Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : Nhân tài giữ cuộc điện an.

Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư). Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên - Địa - Nhân (Trời - Đất - Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước : Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc :


Hội nào bằng hội Mạnh Tân : như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Duy Thuỷ : như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác ; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ.

Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn ”. Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng.
Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người.
Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí : những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ :


Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Ở bài ca thứ hai, tác giả ca ngợi tài năng kiệt xuất của các vua nhà Trần đã sáng suốt chỉ đạo tướng sĩ làm nên chiến công oanh liệt trong lịch sử giữ nước của dân tộc và một lần nữa khẳng định vai trò to lớn và quyết định của con người trong chiến tranh :


Khách cũng nối tiếp mà ca rằng :
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại : cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động mang đậm tính chất triết lí. Ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, vừa lắng đọng, gợi cảm. Tính chất hoành tráng của bài phú thể hiện ở cảm hứng lịch sử dạt dào âm vang chiến thắng oanh liệt, ở những chứng tích gắn liền với dòng sông nổi tiếng. Có thể coi bài Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Lí - Trần. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.

Bình luận (0)