Đề cương ôn tập văn 10 học kì II

PT
Xem chi tiết

    Nhắc đến triều đại nhà Trần, ta không thể không nhắc đến một nhân vật lớn, nhân vật có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến nhân dân là Trương Hán Siêu. Ông là một người có trình độ học vấn vô cùng sâu rộng, uyên bác, lại trải qua những bốn đời vua nhà Trần là Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông và cả hai cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược, ông đã đóng góp rất nhiều cho nhà Trần, được các vị vua thời này tôn kính như một bậc thầy. Trương Hán Siêu cũng là người biên soạn nhiều tác phẩm nổi tiếng, là những áng văn bất hủ mỗi khi nhắc lại. Đó là Bạch Đằng Giang phú, Linh tế thập kỷ, Quang Nghiêm Tự bi văn… Năm 1308, ông được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ ở đời vua Trần Anh Tông. Đến đời vua Trần Minh Tông, ông giữ chức hành khiển, làm Môn hạ hữu ty lang tông ở đời Trần Hiến Tông năm 1339. Và đến năm 1342, vào đời vua Trần Dụ Tông thì ông giữ chức Tả ty lang trung kiêm Kinh lược. Vào tháng 11 năm 1353, Trương Hán Siêu xin cáo bệnh về quê nhưng chưa kịp đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua đã truy tặng cho ông các chức danh lần lượt là hàm thái bảo và thái phó. Năm 1972 được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám. Trong suốt cuộc đời của mình, Trương Hán Siêu đã nhiều lần được giữ những chức vụ quan trọng và đóng góp đáng kể cho đất nước. Kể cả cho đến khi ông mất thì vua và các quan trong triều cũng vô cùng đau xót, truy tặng cho ông những danh huy chương đáng giá. Đặc biệt, việc Trương Hán Siêu được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám sau khi ông mất cho thấy sự coi trọng của quân vương đối với ông. Vai trò của Trương Hán Siêu đối với đất nước được ví như những bậc hiền triết thời xưa. Những tác phẩm của Trương Hán Siêu thường là những áng văn bất hủ, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc. Một trong những nét điển hình cho phong cách của Trương Hán Siêu là cái nhìn về lịch sử, mang dấu ấn hoài niệm, hoài cổ nhưng vẫn đầy trữ tình. Và bài Bạch Đằng Giang Phú (Phú sông Bạch Đằng) chính là một tác phẩm minh chứng cho điều này.

Bình luận (0)
H24
19 tháng 2 2021 lúc 9:59

Trương Hán Siêu là một tác giả lớn của thời đại nhà Trần. Tên tuổi của ông là Thăng Phủ, ông từng làm quan qua 4 đời vua và giữ nhiều chức vụ quan trọng như Hàn lâm học sĩ hay Thượng thư. Ông là một nhà chính trị tài ba lỗi lạc, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và được nhà vua rất coi trọng, khi qua đời ông được vua truy tặng chức Thái bảo, Thái phó. Trương Hán Siêu trở thành một danh sĩ nổi tiếng của nền văn học Trung đại Việt Nam, bài Phú sông Bạch Đằng ra đời trở thành một tác phẩm tiêu biểu, gắn liền với tên tuổi của ông.

Trương Hán Siêu vốn có tính tình cương trực, thẳng thắn và giàu lòng yêu nước, có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên. Ông cũng là người có học vấn uyên thâm và sâu rộng. Để lại nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng như Cúc hoa bách vịnh, Hoá Châu tác, Dục Thuý sơn. Trương Hán Siêu từng soạn bài ký tháp Linh Tế. Ông được coi là nhà văn hóa lớn của thời đại. Các tác phẩm của Trương Hán Siêu đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào về lịch sử tryền thống hào hùng của đân tộc Việt Nam hay tình yêu thiên nhiên. Ngôn ngữ trong thơ ông tinh tế, giàu cảm xúc lắng đọng, hình ảnh giàu sức gợi và tính thuyết phục cao.

Phú sông Bạch Đằng được xem là một tuyệt tác của Trương Hán Siêu, một đỉnh cao của văn học Việt Nam. Bài thơ viết theo thể phú viết xen lẫn văn vần và văn xuôi, được viết bằng chữ Hán. Bài phú sáng tác sau kháng chiến Mông Nguyên thắng lợi, đã thể hiện được tình yêu đất nước và sự tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc. Có ý nghĩa lớn trong việc đúc kết lại những chiến thắng Bạch Đằng lúc bấy giờ.

Bình luận (0)

Trương Hán Siêu là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải qua bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông). Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy.

Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong ông làm Hàn Lâm học sĩ. Đời Minh Tông ông giữ chức Hành khiển. Đời Trần Dụ Tông, năm 1339, ông làm Hữu ti Lang trung ở Môn hạ. Đời Trần Dụ Tông đổi sang Tả Tư Lang kiêm chức Kinh Lược sứ ở Lạng Giang, năm 1345 ông được thăng chức Gián nghị Đại phu tham chính sự. Ông được vua Dụ Tông sai cùng với Nguyễn Trung Ngạn hợp soạn bộ "Hoàng Triều Đại Điển" và bộ "Hình Luật Thư". Năm 1351, ông được phong Tham tri Chính sự.Năm 1353, ông lãnh chiếu chỉ ra trấn nhậm Hoá Châu (Huế), sai người xây thành đắp luỹ, lập kế chống quân Chiêm. Năm 1354, ông cáo bệnh xin nghỉ nhưng trên đường về Bắc chưa kịp đến nhà thì mất, sau được truy tặng Thái phó và cho phối thờ ở Văn Miếu, Thăng Long.Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIV nảy sinh cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo mà Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán đạo Phật, mở đường cho Nho giáo tiến lên. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn "Dục Thuý sơn khắc thạch","Linh TẾ Tháp ký","Khai Nghiêm tự bi","Bạch Đằng giang phú",…Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng"Bạch Đằng giang phú" được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết "Bạch Đằng giang phú"vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài "Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá-Tiếc thay dấu vết luống còn lưu", ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.

"Bạch Đằng Giang phú" là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

"Bạch Đằng giang phú" được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này.

Ở Trương Hán Siêu, hành vi ứng xử nổi bật nhất, in đậm vào sử sách, là thái độ gần gũi thiên nhiên, cách ông nhìn ngắm thiên nhiên tạo vật. Về điều này, nếu nói Trương Hán Siêu gắn bó với cảnh trí của đất nước thì không có gì sai nhưng hình như vẫn chưa đủ. Nhà thơ nhà văn Việt Nam xưa nay rất ít người thờ ơ trước vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc: "Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu" (Nguyễn Trãi). Trương Hán Siêu cũng thế thôi. Nhưng với ông, trong tình yêu thiên nhiên hình như còn có một điều gì khác hơn, một khao khát thường trực muốn chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, nhận biết cho hết mọi tri thức lịch sử – xã hội ẩn ngầm trong ngoại giới.

Trương Hán Siêu là một danh nhân nổi tiếng của mảnh đất Trường Yên – Ninh Bình, một chứng nhân rõ rệt cho truyền thống văn hóa lâu đời của vùng đất văn vật này. Nhưng ông lại cũng là một nhân vật có tầm thước cả nước, một người con ưu tú của văn hóa Thăng Long dưới triều đại Trần. Ông xứng đáng được xếp vào hàng danh nhân tôn vinh ở Văn miếu Quốc tử giám như nhà Trần đã từng "liệt hạng" xưa kia, mặc dù ông không hề có mảnh bằng nào thông qua thi cử. Điều đó cũng nói lên rằng triều đại Trần có sức năng động lớn vì nó biết chuộng thực học, biết lựa chọn tài năng theo những tiêu chí thực tiễn. Bỏ qua mọi thứ phù danh, với những người như Trương Hán Siêu, nhà Trần đã biết cách làm cho mình trở thành bất tử.

Bình luận (0)
PT
Xem chi tiết
PT
7 tháng 2 2021 lúc 15:27

 Bố cục ba phần của một bài làm văn và nhiệm vụ của mỗi phần.

- Mở bài: Giới thiệu nội dung bài viết (tùy theo thể loại mà xác định nội dung cần giới thiệu).

- Thân bài: Thực hiện các yêu cầu trọng tâm như kể chuyện, biểu cảm, miêu tả hay nghị luận...

- Kết bài: Khái quát vấn đề hay nêu cảm xúc, suy nghĩ trước câu chuyện kể hoặc đối tượng miêu tả.

Bình luận (3)
PA
Xem chi tiết
NM
Xem chi tiết
PT
26 tháng 1 2021 lúc 22:08

Thiên nhiên vô cùng tuyệt diệu, sự tuyệt diệu đó thể hiện ở chỗ nó khiến trái đất vận động quanh trục hai mưới bốn giờ nhưng lại cho mười hai giờ trong bóng tối và mười hai giờ ngoài ánh sáng. Sự xuất hiện của ánh nắng mặt trời chính là thời điểm con người bắt đầu một cuộc sống mới, để lao động học tập và khám phá những điều lí thú ở xung quanh. Và khi trái đất chìm vào bóng tối cũng là lúc con người nghỉ ngơi sau một ngày dài mệt nhọc. Nếu không có ánh sáng của mặt trời có lẽ cả cuộc đời chúng ta sẽ không biết thế nào là ý nghĩa, sẽ chẳng có những vần thơ dào dạt tình yêu, chẳng có những buổi bình minh gột rửa màn đêm và cũng chẳng có tiếng chim muông gọi nhau thức giấc. Không chỉ là một vận động của thiên nhiên, ánh nắng mặt trời còn là nguồn  nhiên liệu vô tận đối với cuộc sống. Những ứng dụng khoa học ra đời đều tận dụng nguồn nhiên liệu khổng lồ này. Nước nóng ta dùng từ bình năng lượng mặt trời, máy phát điện mặt trời…. Không những thế nó còn là người bạn đích thực của các bác nông dân, một vụ mùa bội thu phần lớn là do mưa thuận gió hòa mà ra. Nếu ánh nắng đánh thức bình minh, mang đến cho con người cảm giác mùa hè thực sự thì những cơn gió làm dịu mát tâm hồn, xua tan những giọt mồ hôi trên lưng áo mẹ. Thi sĩ xưa kia chỉ một cơn gió thoảng qua kẽ lá cũng đủ làm tâm hồn rung động, cũng đủ gợi nên biết bao nhiêu suy tư sâu sắc. Nếu cuộc sống con người thiếu đi nguồn năng lượng này chẳng khác nào chúng ta đang sống trong một nơi khô cằn, sẽ chẳng còn nghe tiếng gió hát thì thầm, tiếng lá reo vui xào xạc cũng chẳng còn ai lau khô giọt nước mắt trên mi của cô gái trong những ngày đầy phiền muộn. Có lẽ thiên nhiên đã quá ưu ái con người và mang đến cho chúng ta quá nhiều điều tuyệt vời. Tưởng như rất đỗi tự nhiên nhưng lại không thể thiếu đi. Nếu ánh nắng, cơn gió là người bạn hữu hình thì nước chính là một trong những tài nguyên vô giá. Nó thậm chí còn được ví như máu trong cơ thể. Thử hỏi con người nếu không còn máu thì có sống được không? Máu co bóp đi khắp nơi cung cấp oxi cho cơ thể, để trái tim biết đập rộn ràng để con người biết sống vì nhau hơn…Trên trái đất của chúng ta ¾ là đại dương, cũng như cơ thể chúng ta chiếm tới 70% là nước. Nước không chỉ phục vụ cuộc sống, nuôi sống con người mà nó còn có vai trò tích cực trong việc sản xuất công  nghiệp, nông nghiệp dịch vụ. Ngoài ra đây cũng là nguồn khai thác du lịch dồi dào, các suối nước nóng, các vịnh biển mỗi năm thu hút cả triệu khách du lịch.

Bạn tham khảo ý rồi viết

Bình luận (0)
MT
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
CV
Xem chi tiết
H24
16 tháng 4 2020 lúc 11:41

Câu 1:

Thời đại: Đó là một thời đại bão táp của lịch sử. Những cuộc chiến tranh dai dẳng, triền miên giữa các tập đoàn phong kiến đã làm cho cuộc sống xã hội trở nên điêu đứng, số phận con người bị chà đạp thê thảm.

- Quê hương và gia đình: Quê hương núi Hồng sông Lam cùng với truyền thống gia đình khoa bảng lớn cũng là một yếu tố quan trọng làm nên thiên tài Nguyễn Du.

- Bản thân cuộc đời gió bụi, phiêu bạt trong loạn lạc chính là yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Du có vốn sống và tư tưởng làm nên một đỉnh cao văn học có một không hai: Truyện Kiều.

Câu 2:

Các sáng tác chính của Nguyễn Du: Nguyễn Du sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm

- Chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục

- Chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn chiêu hồn

Câu 3: Truyện Kiều

a. Hoàn cảnh

– Truyện Kiều được viết vào thời kì suy tàn của chế độ phong kiến với nhiều bất công ngang trái.

– Sau 15 năm lưu lạc, Nguyễn du được tận mắt chứng kiến hiện thực xã hội phong kiến suy tàn, chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến khiến người dân phải chịu cảnh lầm than.

– Truyện Kiều ra đời như một bức tranh phản ánh hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVIII.

b. Xuất xứ

– Dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

– Nguyễn Du giữ nguyên cốt truyện và nhân vật nhưng sáng tạo và thay đổi chi tiết, ngôn ngữ, tâm lí nhân vật nên đã tạo ra một thế giới nhân vật đặc sắc.

– Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc.

* Giá trị của Truyện Kiều

Truyện Kiều có giá trị to lớn về cả nội dung và nghệ thuật:

+ Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo: tác phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận của người phụ nữ. Truyện Kiều còn mnag giá trị nhân đạo với niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người; lên án tố cáo những thế lực tàn bạo; trân trọng đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến ước mơ, những khát vọng chân chính.

+ Về nghệ thuật: Truyện Kiều đạt được thành tựu về nhiều mặt, đặc biệt là về ngôn ngữ và thể loại.

Truyện Kiều đã đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật với thể thơ lục bát mang đặc trưng của dân tộc.

Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc được kết hợp vào thể thơ lục bát với các hình thức ngôn ngữ: trực tiếp, gián tiếp, nửa trực tiếp. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, tả cảnh để ngụ tình.

Bình luận (0)
NU
16 tháng 4 2020 lúc 11:42

Thanks bạn nha

Bình luận (0)
DH
Xem chi tiết
TP
16 tháng 3 2020 lúc 19:57

Gợi ý

Hiền tài là người tài cao, học rộng, có đạo đức tốt được mọi người tín nhiệm suy tôn. Hiền tài có vai trò quyết định sự hưng thịnh của đất nước, góp phần làm nên sự sống còn của quốc gia và xã hội. Mọi thời đại, quốc gia đều rất cần người tài đức vì đó là nguyên khí của quốc gia (Người tài đức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đất nước phồn vinh. Hiền tài mà không biết tu dưỡng tài, đức thì đất nước suy yếu, suy vong). Cần có chính sách khích lệ, bồi dưỡng nhân tài (tinh thần, vật chất). Trọng dụng người tài: đúng người đúng việc, không lãng phí chất xám.
Bình luận (0)
LD
Xem chi tiết
TP
16 tháng 3 2020 lúc 19:58

Biểu cảm,tự sự

Bình luận (0)
ND
Xem chi tiết
NH
8 tháng 8 2018 lúc 8:39

Câu 1: Đoạn văn đã sử dụng phép liệt kê tăng tiến và phép nhân hóa nhằm khẳng định tinh thần yêu nước là sức mạnh chính giúp nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Câu 2: Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

Thế hệ trẻ trong thời đại ngày nay không còn phải đối mặt với mưa bom bão đạn như thời chiến tranh nhưng lại phải đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Đất nước hòa bình, hội nhập và phát triển tạo điều kiện cho thế hệ trẻ có môi trường và những điều kiện cần thiết để cống hiến bản thân. Vậy nên điều cần thiết là thế hệ trẻ cần xác định mục tiêu và vạch ra những kế hoạch để phát triển năng lực vốn có, phát huy tài năng của mình để cống hiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bình luận (0)