Đây là phiên bản do Đào Ngọc Hà
đóng góp và sửa đổi vào 1 tháng 7 2021 lúc 8:42. Xem phiên bản hiện hành
Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Hồ Chí Minh (1890- 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung.
- Quê quán: làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Là vị lãnh tụ kính yêu của nước Việt Nam.
- Sau 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước.
- Không chỉ có sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc.
- Phong cách sáng tác: Thơ Bác hay viết về thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết, niềm tự hào, lời thơ nhẹ nhàng, bay bổng lãng mạn.
a. Xuất xứ
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2 - 1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.
b. Thể thơ
Thất ngôn tứ tuyệt.
- Thú lâm tuyền là niềm vui thú được sống với rừng, suối.
- Câu thơ đầu có giọng điệu thật thoải mái, phơi phới, cho thấy Bác Hồ sống thật ung dung, hòa điệu với nhịp sống núi rừng:
Sáng ra bờ suối / tối vào hang
- Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi, toát lên cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào...
- Câu thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc đó, có thêm nét vui đùa: lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa, "cháo bẹ, rau măng" luôn có sẵn:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
- Có người hiểu ý hai câu thơ này là dù ăn chỉ có cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Hiểu như vậy không sai về ngữ pháp nhưng không phù hợp với tinh thần chung, giọng điệu chung (thoải mái, vui đùa) của bài thơ, cũng tức là không phù hợp với cảm xúc của tác giả và ít nhiều làm giảm tư tưởng của bài thơ.
- Câu thứ nhất nói về việc ở, câu thứ hai nói về việc ăn, câu thứ ba về làm việc, cả ba câu đều thuật tả sinh hoạt của nhân vật trữ tình ở Pác Bó, đều toát lên cảm giác thích thú, bằng lòng.
- Rõ ràng là với Bác Hồ, được sống giữa núi rừng, có suối có hang, có "vượn hót chim kêu", "non xanh nước biếc" thật là thích thú, mọi thứ cần gì có nấy, "cháo bẹ rau măng" hay "rượu ngọt chè tươi" đều "vẫn sẵn sàng", "tha hồ", "mặc sức" hưởng thụ.
- Nhưng sự thật, hoàn cảnh sinh hoạt của Bác Hố khi đó hết sức gian khổ. Bài Tức cảnh Pác Bó cũng nói lên sự thật đó (ngủ trong hang tối, ăn nhiều khi chỉ có cháo bẹ rau măng, bàn làm việc chỉ là tảng đá chông chênh), nhưng đã biến thành một sự thật khác hẳn, không phải nghèo khổ, thiếu thốn mà là giàu có, dư thừa, sang trọng. Những câu thơ có giọng khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương nhưng niềm vui của Bác ở đây là rất thật, không chút gượng gạo. Niềm vu đó toát lên từ toàn bộ bài thơ, từ từ ngữ, hình ảnh đến giọng điệu.
- Niềm vui lớn nhất của Bác trong bài thơ không phải chỉ là "thú lâm tuyền" giống như của người xưa mà trước hết, đó là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại, sau ba mươi năm xa nước, "đêm mơ nước ngày thấy hình của nước" (thơ Chế Lan Viên), nay được trở về sống giữa lòng đất nước yêu dấu, trực tiếp lãnh đạo cách mạng để cứu nước cứu dân:
Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mà đến bây giờ mới tới nơi
(Tố Hữu)
- Đặc biệt lúc này Bác Hồ còn rất vui vì Người tin rằng thời cơ giải phóng dân tộc đang tới gần, điều mà Bác chiến đấu suốt đời để đạt tới đang trở thành hiện thực. So với niềm vui lớn lao đó thì những gian khổ trong sinh hoạt có nghĩa lí gì; thậm chí, tất cả những hang tối, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh... kia không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, vì đó là cuộc đời cách mạng!
- Vì vậy "thú lâm tuyền" của Bác Hồ và của người xưa vừa giống nhau vừa rất khác nhau. Người xưa thường tìm đến thú lâm tuyền vì thấy bất lực trước thực tế xã hội, muốn "lánh đục về trong", tự an ủi bằng lối sống "an bần lạc đạo". Tuy đó là lối sống thanh cao, khí tiết nhưng không thể gọi là tiêu cực. Còn với Hồ Chí Minh, sống hòa nhịp với lâm tuyền nhưng vẫn nguyên vẹn cốt cách chiến sĩ; và chính cuộc sống lâm tuyền đó là một biểu hiện của cuộc đời cách mạng của Người. Vì vậy, nhân vật trữ tình của bài thơ tuy có dáng vẻ ẩn sĩ, song thực chất vẫn là chiến sĩ.
- Trong câu thơ thứ ba, hình tượng người chiến sĩ bỗng nổi bật, như được đặc tả bằng những nét đậm, khỏe, đầy ấn tượng:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
- Chông chênh là từ láy miêu tả duy nhất của bài thơ, rất tạo hình và gợi cảm. Ba chữ dịch sử Đảng toàn vần trắc, toát lên cái khỏe khoắn, mạnh mẽ, gân guốc. Trong bài thơ thứ tuyệt, câu thứ ba thường có vị trí nổi bật, thường là hình ảnh trung tâm của bài thơ. Như vậy, trung tâm của bức tranh Pác Bó là hình tượng người chiến sĩ được khắc họa vừa chân thực, sinh động, lại vừa như có một tầm vóc lớn lao, một tư thế uy nghi, lồng lộng, giống như một bức tượng đài về vị lãnh tụ cách mạng. Bác Hồ đang dịch Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô làm tài liệu huấn luyện cán bộ, đồng thời, chính là đang xoay chuyển lịch sử Việt Nam nơi "đầu nguồn"... Cảnh ấy, cuộc sống cách mạng quả thật là đẹp, "thật là sang"! Chữ sang kết thúc bài thơ có thể coi là chữ thần, là "nhãn tự" đã kết tinh, tỏa sáng tinh thần toàn bài.
1. Nghệ thuật
- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
- Giọng thơ trong sáng, sâu sắc, thể hiện sự lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn
- Ngôn từ sử dụng giản dị, đời thường.
2. Nội dung
Bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng gian khổ.