Quê hương

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Tế Hanh (1921- 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh.

- Quê quán: sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi.

- Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương.

- Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến.

- Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Phong cách sáng tác: thơ ông chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương - một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945).

b. Bố cục và thể thơ

- 2 câu đầu: Giới thiệu chung về làng quê.

- 6 câu tiếp: Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.

- 8 câu tiếp: Cảnh thuyền cá về bến.

- 4 câu tiếp: Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương.

- Bài thơ thuộc thể thơ tám chữ, gồm nhiều khổ, gieo vần ôm và vần liền.

@311296@@311379@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá

- Hai câu thơ mở đầu rất bình dị, tự nhiên, tác giả giới thiệu về làng quê của mình, nội dung hầu như chỉ có ý nghĩa thông tin, tiếp đến là sáu câu miêu tả cảnh "trai tráng bơi thuyền đi đánh cá" một buổi "sớm mai hồng".

- Đó là những câu thơ đẹp, mở ra cảnh tượng bầu trời cao rộng, trong trẻo, nhuốm nắng hồng bình minh; trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi:

 Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

       Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

                 Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.

- Hình ảnh so sánh (con tuấn mã) và một loạt từ ngữ: hăng, phăng, vượt,... diễn tả thật ấn tượng khí thế băng tới dũng mãnh của con thuyền ra khơi, làm toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng đầy hấp dẫn. Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống.

- Hai câu tiếp miêu tả cánh buồm căng rất đẹp, một vẻ đẹp lãng mạn với sự so sánh độc đáo bất ngờ:

     Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...

- Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và rất thơ mộng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài. Nhà thơ vừa vẽ ra chính xã cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn của sự vật. Sự so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn nhưng đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào diễn tả được chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh gồn làng chài bằng hình ảnh cánh buồm trắng giương to no gió biển khơi bao la đó?

@311447@

2. Cảnh thuyền cá về biển

- Khổ thơ thứ ba là cảnh dân làng chài đón thuyền cá trở về. Bốn câu đầu là một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp niềm vui và sự sống, toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật thích mắt, cả từ lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên "biển lặng" để người dân chài trở về an toàn với cá đầy ghe...

- Bốn câu thơ tiếp theo rất đặc sắc, miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra khơi. Câu đầu Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng là tả thực, cau sau là sáng tạo độc đáo, gợi cảm, rất thú vị: Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Thể hiện người lao động làng chài, những đứa con của biển khơi như thế thì thật hay: nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió, thân hình vạm vỡ và thấm đậm vị mặn mòi, nồng tỏa "vị xa xăm" của biển khơi. Hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc phi thường. 

- Hai câu thơ tiếp theo miêu tả chiếc thuyền nằm im trên bến sau khi vật lộn với sóng gió trở về là sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Tác giả không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn "thấy" sự mệt mỏi say sưa của con thuyền, và còn cảm thấy con thuyền ấy như đang lắng nghe chất muối đang thấm dần trong thớ vỏ của nó. Con thuyền vô tri đã trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân làng chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn của biển khơi. Không có một tâm hồn tinh tế, tài hoa và nhất là nếu không có tấm lòng găn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không thể có những câu thơ xuất thần như vây.

3. Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương

 Ở bốn câu thơ kết, nhà thơ trực tiếp nói về nỗi nhớ làng quê khôn nguôi của mình. Nỗi nhớ chân thành, tha thiết nên lời thơ thật giản dị, tự nhiên, như thốt ra từ trái tim: Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Cậu học sinh Tế Hanh, đứa con hiếu thảo của quê hương đang phải đi học xa quê đó cứ "luôn tưởng nhớ", nhớ tới cồn cào cái "mùi nồng mặn" đặc trưng của quê hương. Với Tế Hanh, cái hương vị lao động làng chài đó chính là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương. Nhà thơ đã cảm nhận được chất thơ trong đời sống lao động hàng ngày của người dân, đó là một điều đáng quý. Vì vậy hình ảnh quê hương trong bài thơ không hề buồn bã, hắt hiu như nhiều bài thơ mới cùng đề tài này, mà thật tươi sáng, khỏe khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động, của sự sống.

@311498@

III. Tổng kết

1. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, giọng thơ khỏe khoắn hào hùng.

- Hình ảnh thơ phong phú, giàu ý nghĩa.

- Nhiều phép tu từ được sử dụng đạt hiệu quả nghệ thuật.

2. Nội dung

Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

@311578@