Đọc văn bản:
Triều Lê đương hội thái hoà
Có Trần công tử tên là Tú Uyên
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên(1)
So trong tài mạo kiêm tuyền kém ai
Thông minh sẵn có tư trời
Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình(2)
Trải xem phong cảnh hữu tình
Lâm toàn(3) pha lẫn thị thành mà ưa
Liền khu trùm một lầu thơ
Lau già chắn vách, trúc thưa rủ rèm
Thừa hư(4) đàn suối ca chim
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng
Cửa chung huy hoác(5) đâu bằng
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen(6)
Khắp so trong cõi ba nghìn
Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi
Thú vui bốn bạn thêm vui(7)
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao(8)
…
Lôi thôi cơm giỏ nước bầu
Những loài yến tước biết đâu chí hồng(9)
Thề xưa đã nặng với lòng
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi
Ao nghiên giá bút thảnh thơi
Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình
Thi hào dậy tiếng Phượng thành(10)
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào(11)
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi
Châu ken chữ, gấm thêu lời
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền
Đã người trong sách là duyên
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm
Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng.
(Trích Bích Câu kì ngộ*, Vũ Quốc Trân)
Chú thích:
* Bích Câu kỳ ngộ (Cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu) là truyện Nôm của Việt Nam, kể về sự tích một người học trò tên là Trần Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu. Bích Câu kỳ ngộ nguyên là một tiểu thuyết bằng chữ Hán, xuất hiện trong tập Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ tuy chỉ là bản dịch ra chữ Nôm, song do thành công về nghệ thuật nên được phổ biến rộng rãi hơn so với nguyên bản
(1) Xuân huyên: Xuân (cũng đọc là thung): một loài cây, quen dùng ví với cha; huyên: một loài cỏ quen dùng ví với mẹ.
(2) Cửa Trình: Bởi chữ Trình môn (cửa họ Trình). Trình Di hiệu là Y Xuyên, một bậc danh nho đời Tống, học trò là Du Thù và Dương Thi mới đến học, thấy Trình lim dim mắt ngồi im, hai người cứ đứng chờ không dám động. Khi Trình biết đến, thì ngoài cửa tuyết dày 3 thước. Nhân tích ấy người ta dùng chữ Trình môn lập tuyết để ví người học trò theo thầy chăm học. Ta có câu “cửa Khổng sân Trình” cũng do tích này.
(3) Lâm toàn: (Hay tuyền) rừng, suối, nói cảnh đường rừng.
(4) Thừa hư: Nhân lúc rỗi.
(5) Huy hoác: Phung phí.
(6) Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen: Hoa cúc có hàng kho như kho vàng, hoa sen có từng đống như đống tiền. Ý nói có nhiều hoa đẹp.
(7) Bốn bạn thêm vui: Có bản chép: "buôn bán thêm vui" hay "bè bạn thêm vui". Có lẽ câu này đúng hơn vì bởi chữ "văn phòng tứ hữu" chăng.
(8) Rừng tao: Chỗ tụ tập các tao nhân mặc khách (khách làng văn).
(9) Yến tước biết đâu chí hồng: Do câu "yến tước an tri hồng hộc chí": loài chim di chim sẻ biết sao được chí khí của chim hồng, chim hộc.
(10) Phượng thành: Thầy địa lý nổi tiếng Cao Biền đời Đường xem đất Hồ Tây cho là kiểu đất "phượng hoàng uống nước"; bởi thế người ta còn gọi Hà Nội là Phượng thành.
(11) Lý, Đỗ, Tô, Tào: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Tào Thực.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra những hình ảnh miêu tả cảnh vật ở Bích Câu trong đoạn trích.
Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp so sánh trong hai dòng thơ sau:
Thi hào dậy tiếng Phượng thành
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào
Câu 4. Qua đoạn trích, tác giả thể hiện tình cảm, thái độ gì đối với nhân vật Tú Uyên?