tại sao trong các thế kỉ 1-thế kỉ thứ 6 nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ nhưng kinh te vẫn phát triển
tại sao trong các thế kỉ 1-thế kỉ thứ 6 nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ nhưng kinh te vẫn phát triển
Boi vi nuoc ta bi xam lupoc nhung van co gangdoan ket de thoat ra va chinh su phat trien ay da giup nuoc ta phat trien
Bạn tham khảo:
Nhà Hán giữ độc quyền về sắt vì muốn:
- Kìm hãm sản xuất.
- Hạn chế nhân dân sản xuất vũ khí để chống lại chúng.
Người Việt vẫn giữ được phong tục, tập quán và tiếng nói của tổ tiên vì:
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa.
- Bộ máy cai trị của người Hán chỉ đến cấp huyện, tại các làng xã vẫn do người Việt đứng đầu, đây là bức thành trì vững chắc để bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc.
- Đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ không có điều kiện theo học ở các trường dạy tiếng Hán.
- Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán,… của người Việt đã được hình thành từ lâu đời, đậm đà bản sắc riêng, có sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt. Bên cạnh đó, nhân dân ta luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân tộc.
Nhà Hán giữ độc quyền về sắt vì muốn:
- Kìm hãm sản xuất.
- Hạn chế nhân dân sản xuất vũ khí để chống lại chúng.
Người Việt vẫn giữ được phong tục, tập quán và tiếng nói của tổ tiên vì:
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa.
- Bộ máy cai trị của người Hán chỉ đến cấp huyện, tại các làng xã vẫn do người Việt đứng đầu, đây là bức thành trì vững chắc để bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc.
- Đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ không có điều kiện theo học ở các trường dạy tiếng Hán.
- Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán,… của người Việt đã được hình thành từ lâu đời, đậm đà bản sắc riêng, có sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt. Bên cạnh đó, nhân dân ta luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân tộc.
Nhà Hán giữ độc quyền về sắt vì muốn:
- Kìm hãm sản xuất.
- Hạn chế nhân dân sản xuất vũ khí để chống lại chúng.
Người Việt vẫn giữ được phong tục, tập quán và tiếng nói của tổ tiên vì:
- Nhân dân lao động không có điều kiện theo học ở các trường dạy tiếng Hán do bọn đô hộ mở...
-Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán... của người Âu Lạc đã được hình thành từ lâu đời, đậm đà bản sắc riêng, có sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt.
+Em hãy cho biết miền đất Âu Lạc trước đây bao gồm những quận nào của Châu Giao?
+Qua sự thất bại của Hai Bà Trưng, nhân dân ta phải chịu những chính sách thâm độc nào của nhà Hán?
Các bạn trả lời giúp mình nha.
+Miền đất Âu Lạc cũ bao gồm ba quận : Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
- Bắt nhân dân ta đóng nhiều thứ thuế vô lí, bắt nhân dân cống nộp sản vật quý hiếm như: ngà voi, đồi mồi,…
- Bắt những người thợ thủ công giỏi, khéo tay về nước.
- Đưa người Hán sang sống chung với người Việt để “thuần hóa” người Việt. Bắt dân ta theo phong tục tập quán của người Hán, học chữ Hán,...
- Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta,...
⟹ Những chính sách vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt.
Văn Lang , Âu Lạc
- Kinh tế: Sự xuất hiện công cụ bằng đồng thau, bằng sắt:
+ Nông nghiệp trồng lúa nước tại châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả, dùng sức kéo của trâu bò khá phát triển.
+ Săn bắt, chăn nuôi, đánh cá, làm nghề thủ công như đúc đồng, làm gốm.
+ Xuất hiện sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Thế kỉ I - thế kỉ VI
* Về kinh tế:
- Nông nghiệp:
+ Công cụ bằng sắt ngày càng được sử dụng phổ biến trong sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống.
+ Công cuộc khai hoang, mở rộng diện tích trồng trọt được đẩy mạnh.
+ Các công trình thủy lợi được xây dựng.
⟹ Năng suất cây trồng tăng hơn trước.
- Thủ công nghiệp, thương mại:
+ Kĩ thuật rèn sắt phát triển.
+ Việc khai thác vàng, bạc, châu ngọc trong nhân dân được đẩy mạnh, đồ trang sức được gia công tinh tế.
+ Xuất hiện một số nghề thủ công mới: làm giấy, làm thủy tinh,…
+ Nhiều tuyến đường giao thông được hình thành phục vụ mục đích giao lưu, buôn bán.
tìm hiểu về tình hình văn hoá nước ta thời Bắc thuộc
Văn hoá Việt Nam thời kì Bắc thuộc
Bối cảnh lịch sử:
Vào những thế kỉ cuối của thiên niên kỉ TCN; nền văn hoá Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách ghê gớm. Quốc gia Văn Lang; sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa được xác lập và tồn tại chưa được bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 TCN; Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông- Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc; chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 TCN; nhà Hán chiếm được nước Nam Việt; đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ; dưới đó là bảy quận; với chức quan đầu châu là thứ sử; đầu quận là thái thú.
Thời kì này kéo dài từ năm 179 TCN (tuy vậy nó được bắt đầu thực sự sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng; năm 43 sau công nguyên) tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỉ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kì này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc; song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc; vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Tổ tiên ta đã “mất nước”. Bấy giờ không còn một nước Việt cổ đại; và nếu nói như F. Ăngghen thì bấy giờ dân Việt cổ “không còn có một hành động độc lập trong lịch sử ”.
Trong diễn trình lịch sử văn hoá bên cạnh xu hướng Hán hoá là xu hướng chống Hán hoá mạnh mẽ; giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt; văn hoá Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ; nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc; đã tiến hành đồng hoá về mặt dân tộc và văn hoá.
Nếu như quốc gia; dân tộc và văn hoá Âu Lạc trước đó chưa hình thành hoặc chưa đạt tới trình độ phát triển cao; chưa định vị được những bản sắc vững chắc của riêng mình thì chắc chắn với những chính sách cưỡng chế đồng hoá trong suốt hơn 10 thế kỉ; nhà nước Việt; dân tộc Việt; văn hoá Việt đã trở thành một phần lãnh thổ; một bộ phận cư dân; một tiểu khu văn hoá của Trung Hoa đại lục.
Song điều đó đã không thể xảy ra; trong thời kì này; đặc trưng cơ bản của văn hoá Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hoá của mình; bảo vệ dân tộc mình; chống lại chính sách đồng hoá; đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển; cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước; giải phóng dân tộc.
Thành tựu văn hoá:
Từ trong các xóm làng cổ; người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hoá bản địa; nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó; nhân dân ta phải sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân; nhân dân vẫn; trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc; không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực lượng xã hội nào; bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế; văn hoá tự mở lấy đường đi.
Nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam là sự “không chối từ” việc tiếp thu; tiêu hoá và làm chủ những ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hoá; trào lưu di cư của một số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ; trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế chế ấy; nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hoá vật chất cũng như về văn hoá tinh thần.
Văn hoá vật chất:
Ngay trong khi vay mượn; nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hoá vật chất; từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc; nhân dân ta đã biết tìm tòi; khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm; rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt; chất lượng; có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc; ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo); ống nhổ; bình con tiện đầu voi; bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang”của đồng bào Mơnông gần đây.
Văn hoá tinh thần:
Chủ thể mang truyền thống văn hoá ngàn xưa và sáng tạo nền văn hoá mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hoá ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hoá; trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hoá của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hoá Việt đặng chống đồng hoá là sự bảo tồn tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ; tiếng nói của dân tộc.
Tiếng nói là một thành tựu văn hoá; là một thành phần của văn hoá. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời; bản địa của dân tộc ta trên dải đất này.
Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ; tiếng Hán- và chữ Hán- được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình; cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên; tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt.
Cố nhiên; dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài; trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần; đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ; tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán.
Người ta thấy nhiều từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo; sáng tạo; đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dùng; cách đọc; tạo thành một lớp từ mới mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt. (Có một quá trình ngược lại; nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán).
Trước và trong thời Bắc thuộc; tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai; Tạng- Miến; và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như mít; lài.. và đặc biệt là các từ thuộc về Phật giáo như Bụt; bồ đề; bồ tát; phù đồ; chùa; tháp; tăng già…). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú.
Từ thời Hùng Vương; đã có một nền phong hoá riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị; chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó; nhất định ảnh hưởng đến phong hoá Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển.
Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước;tính chất phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt) thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta; ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này).
Nét đặc biệt; là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hoá Việt cổ. Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ; cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe “tam tòng; tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng; Bà triệu…Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao.
Cùng với phong tục dùng trống đồng; nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc; xăm mình; chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng; tục nhuộm răng; ăn trầu cau…Cố nhiên; trong diễn trình lịch sử; nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng); từ đầu công nguyên trở về sau; người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn; dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng…
Từ thời Hán; nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch; với mục đích nô dịch nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại dấu ấn trên sự phát triển của nền văn hoá Việt. Thời Văn Lang; Âu Lạc; ta chưa có một nền văn học chính thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hoá khá cao.
Về văn hóa, xã hội:
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa như ngôn ngữ, văn tự.
- Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc.
1. Từ thế kỉ II đến thế kỉ I TCN, Âu Lạc có sự thay đổi lớn là
A. bị sáp nhập vào đất của Trung Quốc và trở thành các quận.
B. bị chia nhỏ để dễ cai trị.
C. bị bóc lột dã man.
D. mở rộng đến mũi Cà Mau.
2. Dưới thời Âu Lạc, cai quản các quận, huyện là
A. quan lại người Hán.
B. Lạc tướng người Việt.
C. quan lại cả người Việt và người Hán.
D. Bồ chính người Việt.
3. Cách sắp đặt quan lại cai trị của nhà Hán đối với đất nước ta là để nhằm mục đích
A. thâu tómquyền lực vào tay người Hán, mua chuộc quan lại người Việt
B. trực tiếp cai trị xuống tận làng, xã.
C. cai trị gián tiếp thông quan bộ máy chính quyền tay sai.
D. chia sẻ quyền lực với quan lại người Việt.
4. Nguyên nhân dẫn tới bùng nổ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là
A. chính sách cai trị của nhà Hán hết sức thâm độc.
B. chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị Thái thú Tô Định giếtchết.
C. Tô Định đánh thuế nặng vào mặt hàng muối, sắt khiến nhân dân rất bất bình.
D. chính sách cai trị thâm độc của nhà Hán và muốn trả thù cho Thi Sách.
5. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Hán đã
A. xóa bỏ tên châu Giao, sáp nhập vào Quảng Châu.
B. đổi tên châu Giao thành Giao Châu.
C. giữ nguyên châu Giao.
D. giữ nguyên châu Giao và đưa người Hán sang thay người Việt giữ chức Huyện lệnh.
6. Chính sách thâm độc nhất của các triều đại phong kiến phương Bắc trong việc bóc lột nhân dân ta là
A. bắt dân ta đóng thuế ruộng đất bằng thóc.
B. độc quyền về muối và sắt, đánh thuế nặng hai mặt hàng này.
C. bắt dân ta đi lao dịch.
D. bắt dân ta cống nộp các sản vật quý.
7. Nhà Hán tiếp tục đưa người Hán sang nước ta nhằm mục đích
A. tăng dân số ở Âu Lạc.
B. tiếp tục chính sách đồng hóa nhân dân ta.
C. đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích.
D. để giúp đỡ nhân dân ta học chữ Hán.
8. Mục đích mà chính quyền đô hộ mở một số trường dạy chữ Hán ở nước ta là
A. để giúp tất cả nhân dân ta biết chữ.
B. giúp con em người Hán ở nước ta biết chữ Hán.
C. đào tạo ra tầng lớp quan lại trung thành với người Hán.
D. phổ biến chữ viết của người Hán ra khắp nơi, ngoài đất Trung Quốc.
9. Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu diễn ra vào năm
A. 248 TCN.
B. 248.
C. 284 TCN.
D. 284.
10. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống lại ách đô hộ của
A. nhà Hán.
B. nhà Nam Hán.
C. nhà Ngô.
D. nhà Tùy.
11. Đầu thế kỉ VI, triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược nước ta là
A. nhà Tùy.
B. nhà Lương.
C. nhà Ngô.
D. nhà Hán.
12. Lý Bí phất cờ khởi nghĩa vào năm
A. 524.
B. 542.
C. 602.
D. 620.
13. Nhân dân khắp nơi đều hưởng ứng, hào kiệt kéo về cùng Lý Bí khởi nghĩa là vì
A. họ căm thù chính quyền đô hộ.
B. họ muốn được làm quan sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
C. họ căm thù chính quyền đô hộ và muốn giành lại độc lập cho dân tộc.
D. họ muốn có ruộng đất để cày cấy.
14. Lý Bí lên ngôi Hoàng đế (Lý Nam Đế) vào năm
A. 544.
B. 554.
C. 556.
D. 602.
15. Lý Bí đặt tên nước ta là
A. Văn Lang.
B. Âu Lạc.
C. Vạn Xuân.
D. Đại Cồ Việt.
16. Thế kỉ VII, dưới ách thống trị của nhà Đường, Giao Châu bị đổi thành
A. châu Giao.
B. AnNam đô hộ phủ.
C. Giao Chỉ.
C. Cửu Chân.
17. Công trình nghệ thuật đặc sắc của Cham-pa là
A. nhà sàn.
B. Phật nhà mồ.
C. tháp Chăm.
D. tượng phù điêu.
18. Cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ nhất giành được thắng lợi vào
A. năm 917.
B. năm 930.
C. năm 931.
D. năm 938.
419. Ngô Quyền quyết định chọn cửa sông Bạch Đằng để xây dựng trận địa đánh giặc vì ở đây
A. địa thế rừng rậm hiểm trở, thủy triều lên xuống mạnh.
B. cửa ngõ giao thông, thuận tiện cho việc đi lại.
C. lòng sông sâu hơn chục mét và rộng hàng nghìn mét.
D. gần rừng núi nên có nhiều gỗ.
20. Thắng lợi của trận Bạch Đằng có ý nghĩa trọng đại nhất là
A. giữ vững nền độc lập tự chủ, mở ra thời đại độc lập lâu dài của dân tộc.
B. đánh tan cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của quân Nam Hán.
C. rửa được thù nhà.
D. chiến thắng vĩ đại trong truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
1,A
2,B
3,A
4,A
5,C
6,D
7,B
8,C
9,A
10,C
11,B
12,
13,
14,
15,
16
17
18
19
20
1.A
2.B
3.A
4.A
5.C
6.D
7.B
8.C
9.A
10.C
11.B
12.B
13.C
14.A
15.C
16.B(có lẽ vậy)
17.B
18.D
19.A
20.A
Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Âu Lạc đã bị xâm chiếm và sáp nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài 10 thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước.
Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Âu Lạc đã bị xâm chiếm và sáp nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài 10 thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước.
1/ Em có nhận xét gì về chính sách cai trị của nhà Hán? 2/ Chính sách thống trị của nhà Hán đối với nhân dân ta về chính trị và văn hóa
1/ Em có nhận xét gì về chính sách cai trị của nhà Hán?
Chính sách cai trị của bọn đỏ hộ đối với nhân dân ta vô cùng tàn bạo, chia lại đơn vị hành chính, cử quan lại người Hán cai trị tới cấp huyện, tiến hành bóc lột dã man bằng các loại thuế và lao dịch nặng nề, vơ vét tài nguyên bằng cách bắt cống nộp, đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng. Thâm hiểm nhất là chính sách đồng hoá dân ta về mọi mặt hòng xoá bỏ dân tộc ta...
2/ Chính sách thống trị của nhà Hán đối với nhân dân ta về chính trị và văn hóa như thế nào?
+Du nhập những phong tục, luật lệ của người Hán vào nước ta
+ Mở trường dạy chữ Hán
+ Đưa người Hán sang ở lẫn với dân ta
+ Bắt nhân dân ta phải học chữ Hán bỏ tiếng Việt
+Cho người Hán vào chung sống với ta
=> Nhằm mục đích đồng hóa nhân dân ta