Tham Khảo
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình tại cung điện Versailles ở Thủ đô nước Pháp để phân chia lại thị trường và vùng ảnh hưởng trên thế giới. Nhưng tất cả các cường quốc đều cố tình lờ đi vấn đề khôi phục hay ít ra là nới rộng quyền cơ bản của nhân dân các nước thuộc địa mà họ đã không ít lần lớn tiếng hứa hẹn khi chiến tranh còn chưa phân thắng bại. Tại Hội nghị này, họ đã phớt lờ bản yêu sách đòi các quyền dân sinh dân chủ tối thiểu do Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước gửi đến. Ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa nhân dân với chủ nghĩa thực dân và tay sai phong kiến ngày càng gay gắt. Các phong trào yêu nước do các tầng lớp sỹ phu, trí thức, tiểu tư sản lãnh đạo đều bị đàn áp dã man và lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lớn mạnh sẵn sàng đảm đương sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng. Tình hình trên đòi hỏi truyền bá một cách có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết cách mạng chân chính vào Việt Nam; vận động, tổ chức đẩy mạnh phong trào yêu nước và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, tích cực chuẩn bị các tiền đề chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một Đảng cách mạng, một tổ chức tiên phong đại diện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho toàn dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đòi hỏi và trên thực tế đã hình thành những tiền đề cần thiết cho sự ra đời một tờ báo cách mạng chân chính. Trong bối cảnh của Việt Nam vào thời điểm này, người gánh trách nhiệm lịch sử đưa ra chủ trương xuất bản tờ báo này phải là người cách mạng, hiểu sâu sắc vai trò của báo chí cách mạng và chỉ có thể xuất bản và lưu hành bí mật ngoài vòng pháp luật của thực dân Pháp. Sứ mệnh lịch sử này đã được nhà yêu nước, người cộng sản Việt Nam đầu tiên nhận trách nhiệm thực hiện. Trên con đường đi tìm đường cứu nước cứu dân, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sự nghiệp báo chí của mình từ cuối năm 1917 khi Người từ Anh trở lại Pháp và sau đó tham gia Đảng xã hội Pháp. Động cơ làm báo lúc này của Người là phát biểu chính kiến của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng ngay tại nước Pháp để đấu tranh cho đội lập tự do cho dân tộc mình. Lúc đầu vốn tiếng Pháp của Người còn chưa đủ. Người phải nhờ một người bạn là luật sư Phan Văn Trường viết hộ. Không phải lúc nào ông bạn cũng nói hết hoặc nói đúng ý của Người. Nguyễn Ái Quốc hiểu chỉ có một cách là tự mình phải viết lấy để diễn đạt đầy đủ ý kiến của mình. Được sự khuyến khích của Charles Longuet, cháu ngoại của C.Mác, chủ nhiệm báo Lepopulaire (Người bình dân) cơ quan của Đảng xã hội Pháp thời kỳ này và của Gaston Monmousseau chủ bút báo La Vie Ouvrière (Đời sống thợ thuyền) Nguyễn Ái Quốc đã đi vào con đường báo chí. Sau này, Bác Hồ đã kể lại kinh nghiệm làm báo của mình như sau: “Lúc ở Pari, tuy biết nhiều tội ác của thực dân Pháp, nhưng không biết làm thế nào để nêu lên được. Một đồng chí công nhân ở toà báo Đời sống thợ thuyền cho Bác biết ở báo ấy có mục “tin tức vắn” mối tin chữ năm, ba dòng thôi và bảo Bác có tin tức gì thì cứ viết, đồng chí ấy sẽ sửa lại cho. Từ đó ngoài những giờ lao động, Bác bắt đầu viết những tin rất ngắn, mỗi lần viết làm hai bản, một bản đưa cho báo, một bản thì giữ lại. Lần đầu tiên thấy tin đã được đăng thì rất sung sướng. Mỗi lần đều đem tin đã đăng trên báo so với bài mình đã viết, xem sai chỗ nào. Về sau đồng chí ấy bảo Bác viết dài thêm vài dòng nữa, rồi lại vài dòng nữa… cứ thế kéo dài 15, 20 dòng, rồi đến cả một cột dài. Lúc đó đồng chí ấy lại bảo: “Thôi bây giờ phải viết rút ngắn lại, cũng những việc như vậy nhưng phải viết cho rõ, cho gọn”[1]”. Bài báo đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc mà ngày nay chúng ta được biết là một bài luận chiến sắc sảo với tiêu đề: “Tâm địa thực dân”. Bài báo đã phê phán những luận điệu xuyên tạc của một nhà báo Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1919, nhiều tờ báo ở Pháp trong đó có những tờ nổi tiếng như: L’Humanité, Lepopulaire, La Vie Ouvrière, Le journal purple (Báo của dân), Le cahiers du communisme (Tạp chí cộng sản), La Correspondance internationale (Thư tín quốc tế)… đã đăng nhiều bài của Nguyễn Ái Quốc. Tháng 7/1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt động cách mạng ở các nước thuộc địa khác của Pháp như Angieri, Tuynidi, Mangát, Máctinie, Marốc, lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Số 1 ra ngày 1/4/1922. Những bài đăng trên tờ báo này đã biểu hiện tài năng báo chí và văn học của Nguyễn Ái Quốc. Sau một năm phát hành tờ Người cùng khổ và đang phát triển tốt đẹp, Nguyễn Ái Quốc dự định xuất bản một ấn phẩm định kỳ bằng tiếng Việt nhằm phục vụ kiều bào ta nơi đất khách. Người dự định đặt tên cho tờ báo này là Việt Nam hồn. Tờ Việt Nam hồn chưa kịp ra mắt thì Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Tờ Việt Nam hồn đã được các bạn của Người thực hiện. Tờ Việt Nam hồn cũng được gửi về phát hành ở Việt Nam. Khi bắt đầu bước vào nghề báo, Nguyễn Ái Quốc chưa tới tuổi ba mươi. Từ năm 1923 đến 1924, khi học tập công tác ở Liên Xô, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc làm cộng tác viên của hãng thông tấn Liên Xô và tờ tiếng Anh: Canto Gazette – Cơ quan của quốc dân Đảng Trung Quốc. Từ những bước tập viết những tin ngắn bốn, năm dòng lúc đầu, chỉ vài năm sau, Người đã sử dụng thuần thục ngòi bút của mình giữa làng báo Pari, tạo nên những tác phẩm báo chí cho đến nay vẫn còn là mẫu mực. những chủ đề khi Nguyễn Ái Quốc mới bước vào nghề đề cập thời kỳ này là những vấn đề hệ trọng đến sự tồn vong của dân tộc và đụng chạm đến nhiều nhân vật và sự kiện tầm cỡ quốc tế. Trong các tác phẩm đầu tay của mình, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn lý luận cách mạng. Các bài báo của Người thời kỳ này đã thể hiện rõ một căn bản trí thức sâu rộng. Nguyễn Ái Quốc đã để lại nhiều bài luận chiến ngôn từ sắc bén, lập trường vững chắc, nhiều tiểu phẩm chua cay đối với kẻ thù. Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản 1925 là một tác phẩm lớn mang tính tố cáo đanh thép đối với chế độ thực dân dựa trên những tư liệu đầy sức thuyết phục, không những có giá trị cao về chính trị - lý luận mà còn có giá trị cao về báo chí, văn học! Nguyễn Ái Quốc là một nhà báo như vậy, khi Người chuẩn bị cho sự ra đời của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Cuối 1924, quốc tế cộng sản phái Nguyễn Ái Quốc sang công tác ở Trung Quốc theo đúng nguyện vọng của Người được gần với Tổ quốc để có điều kiện hoạt động hơn tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là mục đích cao nhất của Người đặt ra trong thời điểm này. Thời gian này, với cương vị uỷ viên Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam, là nhà yêu nước có sự hiểu sâu sắc văn hoá Đông Tây, là nhà cách mạng thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một người từng nhiều năm làm báo và hiểu rõ sức mạnh của báo chí. Nguyễn Ái Quốc rất tâm đắc những tư tưởng của Lênin về báo chí: “Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị”, “chúng ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện”[2] “Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung”[3]. Cuối năm 1924, khi về đến Quảng Châu - Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc chuẩn bị xuất bản một tờ báo chính trị đồng thời với việc mở những lớp huấn luyện các thanh niên ưu tú đưa từ trong nước sang để làm nòng cốt cho cách mạng sau này. Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí là học trò của Người thực hiện công việc trọng đại này trên căn gác nhỏ ở khu phố buôn bán sầm uất ở trung tâm Quảng Châu. Căn gác này cũng là nơi thành lập và là trụ sở của Hội Việt Nam cách mạng. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận và đấu tranh của Tổ chức này. Báo ra hàng tuần có khuôn khổ 19x13cm, ra mỗi kỳ 2 trang, có số 4 trang. Báo có các mục sau: xã luận, bình luận, diễn đàn Phụ nữ, phê bình, tin tức, thơ ca, vấn đáp, trả lời bạn đọc, việc làm. Báo Thanh niên đảm trách nhiệm vụ cơ bản là tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Thông qua những bài viết để trình bày có hệ thống một số vấn đề cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ra sức đoàn kết chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc giành lại độc lập dân tộc. Báo in trên chất liệu giấy sáp rồi được chuyển bí mật về nước. Ở Việt Nam các tờ báo Thanh niên được các cơ sở cách mạng chép tay thành nhiều bản rồi chuyền tay nhau cho các đồng chí của mình đọc và truyền đạt tới nhân dân. Số đầu của tờ Thanh niên xuất bản ngày 21/6/1925 và tiếp tục xuất bản đều đặn hàng tuần. Với gần 90 số, báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyên truyền Đường Kách mệnh, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh, góp phần tích cực chuẩn bị về mặt lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một dòng báo chí mới ÷ Báo chí cách mạng Việt Nam. Sau báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc lập ra báo Kông nông (1926), Báo Đường Kách mệnh (1927). Ngày 1/10/1929, Báo Búa liềm, cơ quan ngôn luận của Đông Dương cộng sản Đảng ra số đầu tiên. Tháng 8/1929, chi bộ An Nam cộng sản ở Thượng Hải ra báo Đỏ viết tay trên giấy sáp. Kể từ tờ Thanh niên mở đường, đến cuối năm 1929, báo chí cách mạng Việt Nam đã có trên 50 tờ báo và tạp chí là cơ quan của các cấp Hội của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng và 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng. Ngày 3/2/1930, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thông qua nghị quyết về kế hoạch thành lập một Đảng cộng sản chân chính. Trong mục q của nghị quyết này ra nghị quyết về báo chí với các nội dung sau: 1. Bỏ những tờ báo do Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng xuất bản trước đây. 2. Ban Trung Ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền. 3. Bỏ những tờ báo của các hội quần chúng do Đảng chỉ đạo. 4. Duy trì tất cả những tờ báo do quần chúng chủ trương[4] Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam từ tờ báo đầu tiên - báo Thanh niên xuất bản ngày 21/6/1925, qua mỗi thời kỳ cách mạng 1925-1930, 1930-1945, 1945-1954, 1954-1975, 1975-1986, 1986-đến nay, đều có sự phát triển mạnh mẽ. Đến nay là một hệ thống quốc gia các cơ quan thông tin đại chúng gồm nhiều loại hình, ở nhiều cấp, thuộc nhiều cơ quan chủ quản, xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng các dân tộc thiểu số, bằng ngoại ngữ với những chức năng và nhiệm vụ hết sức đa dạng, nhằm nhiều loại đối tượng và sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Ngày nay với trên 600 cơ quan báo chí với tất cả các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử đều tiếp cận công nghệ làm báo hiện đại để đưa thông tin báo chí lên các hạ tầng, nền tảng truyền thông hiện đại, với gần 20.000 nhà báo có bản lĩnh chính trị, có đạo đức và nghiệp vụ báo chí, Báo chí cách mạng Việt Nam là một nền báo chí kiểu mới, do Đảng cộng sản tổ chức lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng chính trị tư tưởng. Đó là nền báo chí vừa là cơ quan ngôn luận của các tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là diễn đàn của Nhân dân. Đây thực sự là nền báo chí của Nhân dân, vì lợi ích cao cả của nhân dân mà hoạt động và chịu sự giám sát của Nhân dân. Rất đỗi tự hào trước những trưởng thành và cống hiến to lớn trong lịch sử 96 năm qua, hơn 20.000 nhà báo Việt Nam tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống bút sắc, lòng trong tâm sáng, ra sức phấn đấu xây dựng nền báo chí Việt Nam cách mạng, chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, hiệu quả - là người tuyên truyền, cổ động, tổ chức chung góp phần hiện thực hóa thắng lợi khát vọng 2045: Việt Nam thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
Tham Khảo
Đây là lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2/1930 - 3/2/1960, kết thúc bài phát biểu, Người xúc cảm viết:
“Ðảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Ðảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no.
Công ơn Ðảng thật là to,
Ba mươi năm lịch sử Ðảng là cả một pho lịch sử bằng vàng” (2).
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam; khẳng định những đóng góp to lớn, vĩnh cửu đối với cách mạng dân tộc; khẳng định vai trò vĩ đại của Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc - Nguyễn Tất Thành.
Thời kỳ đó, dân tộc Việt Nam đang trong cảnh lầm than, đen tối; xã hội Việt Nam là xã hội phong kiến lạc hậu với hai giai cấp cơ bản (giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân); với nền kinh tế sản xuất tiểu nông, cơ sở kinh tế, dịch vụ chưa phát triển. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược, đặt ách thống trị trên đất nước ta. Việt Nam trở thành một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu.
Phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi trên khắp cả nước, nhưng do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức phong trào chưa chặt chẽ, không có cơ sở rộng rãi và vững chắc trong quần chúng. Nên, các phong trào yêu nước bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Dù không thành công nhưng các phong trào đã làm thức tỉnh, cổ vũ truyền thống yêu nước, chí căm thù giặc Pháp của nhân dân ta, đã gây tiếng vang trên thế giới và thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục đi lên. Những thất bại đó dẫn đến sự khủng hoảng và bế tắc đường lối cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo tiên tiến, cùng với lý luận đúng đắn mới đi tới thành công.
Cùng lúc này, xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện giai cấp công nhân từ hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; đa số họ xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân; bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột đến cùng cực; họ có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân; có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài… Việc ra đời, phát triển, trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn này đã khẳng định ý nghĩa và tầm vóc của lực lượng chính trị độc lập, có đủ khả năng, năng lực lãnh đạo toàn dân hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Vì, giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân hiện đại, mang trên mình sứ mệnh lịch sử của thời đại. Nhưng để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải được tổ chức, được vũ trang về tư tưởng lý luận và phải có đội tiên phong lãnh đạo.
Nguyễn Tất Thành - Người thanh niên Việt Nam yêu nước chân chính, mãnh liệt bằng dự cảm chính trị thiên tài, suy nghĩa táo bạo, trí tuệ minh mẫn đã nhận thấy những hạn chế, bế tắc về mục tiêu, phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời; bằng những bài học lịch sử và khảo nghiệm trong thực tiễn, Nguyễn Tất Thành quyết định phải tìm con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngoài theo một hướng khác - hướng ngay trong lòng xã hội nước Pháp. Đây là quyết định quan trọng mở ra chặng đường 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước của Người.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước. Hành trang của Người chỉ có lòng yêu nước thiết tha, cùng với sự hấp dẫn của tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyết tâm cháy bỏng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.
Trong những năm ở Mỹ, ở Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới: cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) với bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền”.Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường của họ. Bởi vì, “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” (3). Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, tư duy tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt trên các nhà yêu nước tiền bối. Người đã không lựa chọn con đường cách mạng tư sản, bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì nó không hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công.
Đầu năm 1913, tại Anh, Nguyễn Tất Thành tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Đây là dịp để Người tìm hiểu sâu về cách mạng tư sản Pháp, về công xã Pari (năm 1871) và về cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức lại Hội những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp; hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tham gia Đảng xã hội Pháp. Với tinh thần học tập không biết mệt mỏi và ý chí phấn đấu kiên cường vượt qua những thử thách của cảnh nghèo túng, thiếu thốn trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tiến những bước dài trong quá trình tìm đường cứu nước - tìm đến đỉnh cao của trí tuệ thời đại là Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ năm 1911 - 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đi qua hàng chục quốc gia, từ các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập và tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội của nước sở tại, các nước tư bản chủ nghĩa khác, tham gia hoạt động yêu nước ở nước ngoài. Người hiểu thấu bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (4). Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo ngày 16 và 17/7/1920 là dấu ấn, bước ngoặt quan trọng, quyết định trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường giải phóng dân tộc. Người nhận định: “Bản Luận cương có những chữ chính trị khó hiểu nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi hiểu được phần chính” (5), sau khi nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, Nguyễn Ái Quốc xác định con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng cao cả của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tiếp thêm sức mạnh, trở thành nền tảng lý luận để Người vận dung, sáng tạo và phát triển trong điều kiện Việt Nam, biến giấc mơ của hàng triệu người Việt Nam mong muốn được tự do, được độc lập thành hiện thực.
Sau khi tiếp thu những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng tháng Mười Nga và tiến hành hàng loạt các hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Tháng 4/1921, tờ La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản) đăng bài “Đông Dương” đánh dấu điểm bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1921 đến tháng 2/1923 Nguyễn Ái Quốc viết trên 20 bài đăng trên các báo L’Humanité và La vie ouvrière, đây là hai tờ báo có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp công nhân, người lao động Pháp và đặc biệt là có ảnh hưởng đối với các nước hải ngoại. Và với vai trò là chủ bút báo Le Paria (Người cùng khổ), Nguyễn Ái Quốc đã có gần 40 bài viết, nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc soạn thảo những bài viết, bài giảng để tuyên truyền với lời văn giản dị, nội dung thiết thực vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa và nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc; làm thức tỉnh nhân dân và định hướng hành động cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Việc đưa báo về nước là vô cùng khó khăn, con đường công khai luôn bị thực dân Pháp kiểm duyệt gắt gao, vì vậy Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức một đường dây bí mật thông qua những thủy thủ yêu nước, làm việc trên tuyến đường vận tải biển Pháp - Đông Dương. Qua đường dây này các tờ báo và các tài liệu, truyền đơn được bí mật đưa về Sài Gòn, Hải Phòng chuyển tới các cơ sở cách mạng và các trí thức yêu nước, các sinh viên tiến bộ. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng tại Quảng Châu, để tránh sự phát hiện của thực dân, các tài liệu được chuyển theo đường vòng về nước, từ Quảng Châu đi Matxcơva rồi sang Paris và quay lại Việt Nam hoặc có thể từ Quảng Châu chuyển trực tiếp về Việt Nam. Những bài báo, tài liệu có giá trị cho cách mạng, đáp ứng được mong mỏi của các tầng lớp nhân dân ở trong nước của Nguyễn Ái Quốc được chép lại rồi truyền cho nhau xem và bình luận.
Bằng những hoạt động tích cực, Nguyễn Ái Quốc đã gây ảnh hưởng nhất định trong phong trào cộng sản ở Pháp, cũng như ở trong nước; truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam một cách thường xuyên, có hệ thống; là sự mở đầu quan trọng nhằm khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân theo tư tưởng, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin. Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền; phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” (6).
Nhằm tuyên truyền và phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xuất bản hai tác phẩm mang tầm vóc tư tưởng lớn, đó là: “Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc” (7) và cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” (8), đặc biệt, tập bài giảng của Người (sau này tập hợp trở thành tác phẩm “Đường Cách mệnh” (9)) với nội dung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng đối với nhân dân các nước thuộc địa và nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc nêu ra những vấn đề mới như: cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới; chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất, duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng; thông tin về tổ chức Quốc tế cộng sản - một tổ chức chính trị quốc tế bênh vực quyền lợi của các dân tộc thuộc địa. Đối với cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…
Bên cạnh đó, tại các diễn đàn quốc tế: Đại hội I Quốc tế Nông dân (10), Đại hội V Quốc tế Cộng sản (11), Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ (12), Đại hội IV Quốc tế Thanh niên…, Nguyễn Ái Quốc đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa, bảo vệ luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, tuyên truyền những tư tưởng cách mạng trên lập trường mácxít. Giai đoạn này, việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc được mở rộng cả về chiều sâu và chiều rộng. Những tài liệu gửi về nước đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều tầng lớp nhân dân đặc biệt là tầng lớp trí thức, thúc đẩy các phong trào yêu nước lan rộng trong cả nước, dần hòa cùng phong trào cộng sản thế giới.
Cùng với việc chuẩn bị về công tác tư tưởng, công tác chính trị cho thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc còn dày công chuẩn bị về mặt tổ chức. Người trực tiếp tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào tháng 6/1925 để đưa cán bộ về nước chuẩn bị lực lượng và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho đông đảo quần chúng nhân dân. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn một số thanh niên gửi đi học ở trường quân sự Hoàng Phố và trường chính trị Phương Đông để xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán cho Đảng sau này. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ; giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp khác nhau dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng; rèn luyện, giác ngộ lớp thanh niên yêu nước về lập trường giai cấp; thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ; giác ngộ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác;...
Việc xây dựng được một hệ thống tổ chức và phong trào cách mạng trên cả nước; khơi dậy tinh thần sục sôi, hoài bão cách mạng trong những thanh niên yêu nước; và đưa phong trào “vô sản hóa” vào sâu các cuộc đấu tranh, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng đúng đắn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã phản ánh tư duy sáng tạo và thành công của Nguyễn Ái Quốc trong công tác chuẩn bị về mặt chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là điều kiện chín muồi, hợp quy luật cho sự ra đời tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam./.