1. Mở bài: Giới thiệu bao quát:
- Quê ngoại em nằm ngay bên cạnh dòng sông ………. .
- Nghỉ hè, em được về quê ngoại chơi, được chèo xuồng dạo chơi trên sông, hòa mình vào làn nước mát trong.
- Con sông quê ngoại có nhiều kỉ niệm gắn bó với em.
2. Thân bài: Tả dòng sông.
- Con sông này không rõ nguồn gốc từ đâu, chỉ thấy có đoạn chảy qua trước nhà như một dãy lụa mềm ôm chặt đôi bờ cù lao.
- Mặt sông rộng mênh mông. Đứng bên đây bờ có thể nhìn sang bên kia bờ.
a) Buổi sớm:
- Khi mặt trời lên, mặt sông lấp lánh như sao sa.
- Dòng sông trong xanh như ngọc bích long lanh.
- Những con đò, thuyền câu xuôi ngược, dọc ngang rộn ràng.
- Hai bên bờ, lũy tre xanh nghiêng mình soi bóng xuống mặt sông.
- Gió thổi nhè nhẹ làm những bụi tre lao xao.
- Chim chóc đua nhau chuyền cành, ca hát để đón chào ngày mới.
- Đã có lần tôi thấy con cá lóc to dẫn đàn rồng rồng đi tìm mồi.
b) Buổi trưa:
- Một nhóm trẻ ra sông vùng vẫy, tắm rửa, té nước vào nhau, cười vui vẻ.
- Vài đứa con trai bơi lội khéo léo như những chú cá heo.
- Dòng sông như dang rộng vòng tay ôm tất cả vào lòng.
- Bây giờ, dòng sông khoác lên mình chiếc áo xanh duyên dáng, óng ánh dưới ánh nắng mặt trời.
c) Buổi chiều:
- Mặt trời đỏ ối chiếu ánh nắng xuống mặt sông.
- Buổi chiều êm ả, dòng sông trở nên dịu dàng kì lạ.
- Gió thổi mang theo hơi nước mát lạnh.
- Nhiều người ra bờ sông hóng mát, ngắm dòng sông quê hương.
- Tiếng gà chiều xôn xao đã xóa đi sự yên tĩnh của dòng sông.
3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em:
- Em rất yêu dòng sông quê ngoại.
- Dòng sông đã ghi lại bao kỉ niệm đẹp của cuộc đời con người.
I. Mở bài: giới thiệu về dòng sông quê em
Em là một người con của một miền quê nông thôn ấm áp và hiền hòa. Em lớn lên cùng những cánh đồng dài thẳng tắp, những đàn cò trắng phau thẳng cánh lả lơi, những tiếng chim ríu rít hằng ngày,…. Quê em rất đỗi thân thương và bình dị. Em thích nhất là ra bờ sông để ngắm nhìn dòng nước chảy rì rào, để ngâm chân mình dưới dòng nước mát lạnh. Con sông quê em rất đỗi thân thương, em sẽ giới thiệu con sông quê em cho mọi người cùng biết.
II. Thân bài
1. Tả khái quát
- Dòng sông dài ngoằn nghèo
- Dòng sông có nước trong veo, chảy rì rào như một điệu nhạc
- Dòng sông nằm cạnh cánh đồng bao la
- Hai bên dòng sông có các cây cỏ um tùm
2. Tả chi tiết
a. Buổi sáng
- Mặt trời mọc hòa mình vào dòng sông
- Dòng sông nhộn nhịp với tàu thuyền đánh cá
- Tấp nập người qua sông
- Rồi người làm việc trên sông
- Trẻ con đi cào hến, bắt cua trên sông
b. Buổi trưa
- Nắng dãi trên sông
- Dòng sông nằm phẳng lặng
- Những đứa trẻ nghịch ngợm không ngủ trưa ra sông nghịch nước
- Những người già ra sông tìm bóng mát nghỉ trưa
- Các mẹ thì tất bật giặt quần áo
c. Buổi chiều
- Dòng sông lấp lánh ánh vàng của những vệt nắng cuối ngày
- Bọn trẻ nhỏ nô đùa quanh sông
- Các chú chèo thuyền đi thả lờ để đặt cá
- Màn đêm bắt đầu buôn xuống
d. Buổi tối
- Dòng sông chìm trong bóng tối
- Những người đi thả cá, bắt tôm
- Những ánh đèn mập mờ trên sông
- Rồi dòng sông chìm trong giấc ngủ êm đềm
3. Lợi ích của dòng sông
- Cung cấp nước sinh hoạt
- Mang lại lương thực thực phẩm
- Điều hòa nguồn nước
- Điều hòa không khí
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về dòng sông
Con sông đã cùng em lớn lên, con sông như một người bạn thời cắp sách của em. Con sông mang lại nhiều lợi ích cho gia đình em và những người trong làng em. Em rất yêu con sông quê em.
TRUYỆN “QUẢ BẦU MẸ”
Xưa có hai anh em, một trai một gái, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ. Một hôm nọ vào rừng kiếm ăn, gặp một con Dúi, bèn đuổi bắt. Dúi chui vào hang. Hai anh em đào bắt được. Dúi xin tha và nói sở dĩ phải chui vào hang sâu vì trời sắp sập, sẽ có mưa ngập tất cả. Dúi khuyên hai anh em lấy một khúc gỗ to đẽo rỗng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ bảy ngày bảy đêm rồi chui vào trong đó.
Miệng khúc gỗ được bịt sáp ong như bưng thành mặt trống. khi hết hạn, hai anh em lấy lông Dím chọc thủng sáp ong, nếu thấy không có nước rỉ vào thì phá mặt trống mà ra. Hai anh em tha cho Dúi và làm theo lời Dúi bảo. Mưa lớn, nước ngập mênh mông. Đúng hạn, hai anh em chui ra, trống mắc trên cây Nhót, vì thế cây Nhót không bao giờ thẳng. Hai người leo xuống, tặng nhau nắp trầu làm tin rồi chia tay nhau đi tìm đồng bào. Hai người đi hai ngã nhưng lại gặp nhau, vì những người khác đã chết hết. Và họ cứ đi tìm như thế nhiều lần mà vẫn thất vọng vì mọi người khác đã chết hết. Lần cuối cùng, chim Tgoóc khuyên hai anh em nên lấy nhau để có con nối dõi, loài người được sinh sôi nảy nở. Ít lâu sau, người em có mang, chửa được bảy năm, bảy tháng, bảy ngày thì sinh ra một quả bầu. Người chồng muốn đập vỡ ra, người vợ tiếc đem gác lên gác bếp. Một lần đi làm nương về, hai người cứ thấy tiếng cười đùa trong nhà, nhưng đến khi vào nhà lại thấy im bặt. Lấy làm lạ, người chồng leo lên gác bếp ghé tai vào quả bầu, nghe có tiếng ầm ĩ, mang xuống định lấy dao chặt. Sợ như vậy chạm vào con, người vợ bảo lấy que đốt nhọn đầu và dùi lỗ. Bỗng có người Xá chui ra trước. Người chồng mừng quá, khoét lỗ rộng thêm, thì người Thái, người Lào, người Lự lại ra theo. Người vợ sốt ruột lấy củi phang vỡ quả bầu. Người Kinh, người Hán ra nốt, người Xá dính nọ nên đen, người Kinh người Hán ra sau nên trắng.
Câu chuyện trên đây được kể lại trong bài phân tích dưới đây về "văn hóa bầu bí" của người VN:
VĂN HOÁ BẦU BÍ
Việt Nam bao gồm trên 56 sắc tộc rải khắp từ cao nguyên đến đồng bằng, từ miền xuôi đến miền ngược, từ vùng sông trũng đến miền biển cả, nhiều sắc tộc nhưng lại hoà hợp, gần nhau về các đức tính, cách nghĩ suy và hướng tâm linh. Có một điều gì làm nên cái chung ấy, giải thích bằng huyền thoại cho ta gặp thấy trong các huyền thoại của các sắc tộc khác nhau, ta tìm thấy có một mẫu số chung ấy là Mẹ Việt Nam. Cụ thể có thể lấy một trong những mẫu truyện của miền Tây Bắc, chuyện kể rằng:
“Xưa có hai anh em, một trai một gái, nhà nghèo, mồ côi cha mẹ. Một hôm nọ vào rừng kiếm ăn, gặp một con Dúi, bèn đuổi bắt. Dúi chui vào hang. Hai anh em đào bắt được. Dúi xin tha và nói sở dĩ phải chui vào hang sâu vì trời sắp sập, sẽ có mưa ngập tất cả. Dúi khuyên hai anh em lấy một khúc gỗ to đẽo rỗng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ bảy ngày bảy đêm rồi chui vào trong đó.
Miệng khúc gỗ được bịt sáp ong như bưng thành mặt trống. khi hết hạn, hai anh em lấy lông Dím chọc thủng sáp ong, nếu thấy không có nước rỉ vào thì phá mặt trống mà ra. Hai anh em tha cho Dúi và làm theo lời Dúi bảo. Mưa lớn, nước ngập mênh mông. Đúng hạn, hai anh em chui ra, trống mắc trên cây Nhót, vì thế cây Nhót không bao giờ thẳng. Hai người leo xuống, tặng nhau nắp trầu làm tin rồi chia tay nhau đi tìm đồng bào. Hai người đi hai ngã nhưng lại gặp nhau, vì những người khác đã chết hết. Và họ cứ đi tìm như thế nhiều lần mà vẫn thất vọng vì mọi người khác đã chết hết. Lần cuối cùng, chim Tgoóc khuyên hai anh em nên lấy nhau để có con nối dõi, loài người được sinh sôi nảy nở. Ít lâu sau, người em có mang, chửa được bảy năm, bảy tháng, bảy ngày thì sinh ra một quả bầu. Người chồng muốn đập vỡ ra, người vợ tiếc đem gác lên gác bếp. Một lần đi làm nương về, hai người cứ thấy tiếng cười đùa trong nhà, nhưng đến khi vào nhà lại thấy im bặt. Lấy làm lạ, người chồng leo lên gác bếp ghé tai vào quả bầu, nghe có tiếng ầm ĩ, mang xuống định lấy dao chặt. Sợ như vậy chạm vào con, người vợ bảo lấy que đốt nhọn đầu và dùi lỗ. Bỗng có người Xá chui ra trước. Người chồng mừng quá, khoét lỗ rộng thêm, thì người Thái, người Lào, người Lự lại ra theo. Người vợ sốt ruột lấy củi phang vỡ quả bầu. Người Kinh, người Hán ra nốt, người Xá dính nọ nên đen, người Kinh người Hán ra sau nên trắng."
Giải mả mẫu huyền thoại trên ta thấy, không riêng gì dân tộc phía Tây Bắc có câu chuyện như vậy, mà có cả trên trăm truyện na ná như thế hình thành từ nhiều sắc tộc khác nhau. Điều quan trọng không chỉ là diễn giải con người có cùng nguồn gốc, nhưng một triết lý quan trọng, đó là một triết lý nhân sinh quan đến vũ trụ quan và cuối cùng là nhận thức siêu hình.
Nhận thức nhân sinh quan, người ta thấy câu truyện bắt nguồn từ khi con người bắt đầu biết trồng trọt. Nghề lúa nước thưở xưa cần nhiều người hợp lực, gắn kết con người sống chết với nhau, từ đó cũng có người gọi nền văn hoá nông nghiệp sơ khai ấy là nền “văn hoá bầu bí”. Nền “văn hoá bầu bí” muộn nhất cũng phát triển từ thời đồ đá mới. Bầu bí thưở xưa gắn bó với nền văn hoá Đông Dương, biểu lộ một đời sống sung túc hơn vào thời hái lượm nhờ trồng trọt được thêm những hoa quả làm tăng giá trị dinh dưỡng. Từ khi trồng trọt được, con người sống định cư, để ổn canh họ tổ chức thành xã hội, cơ cấu xã hội ban đầu ấy dựa vào tình thương để đùm bọc lẫn nhau để sống: “Bầu ơi, thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Ý thức về xã hội tập hợp gồm nhiều dân tộc sống cùng nhau trên mảnh đất, đòi hỏi của nghề lúa nước là “tối lửa tắt đèn có nhau” làm tiêu chí để “an cư lạc nghiệp”.
Những xung đột về sắc tộc bắt nguồn từ khi con người tăng trưởng về số lượng, vùng đất xưa canh tác trở nên nhỏ hẹp. Người ta liên kết theo từng nhóm sắc tộc để đấu tranh sinh tồn chống lại những nhóm người khác tới. Những huyền thoại bắt đầu có sự riêng rẽ, phân biệt sắc tộc này với sắc tộc nọ, cũng nhằm củng cố tinh thần của nhóm sắc tộc của mình, huyền thoại không còn dừng ở huyết thống mà theo vùng cư trú. Có những huyền thoại mang dấu vết chia rẽ hận thù giữa các dân tộc cũng hình thành từ đấy.
Con người bắt đầu liên kết với nhau và phân rẽ nhau cũng vì miếng ăn. Đọc lại huyền thoại phải chăng là cách để nối lại tình xưa đã mất mà gạt đi những ích kỷ nhỏ nhen, những tỵ hiềm, tranh chấp chỉ vì miếng ăn. Người ta sống đâu chỉ là ăn mà là còn ở được với nhau. Quả bầu Mẹ, cần nhắc lại để thắp lại tình anh chị em đã mất, để nhận ra nhau là anh chị em là những con người cần có tình thương hơn những khi cần bánh.
Huyền thoại quả bầu Mẹ cũng cho biết một vũ trụ quan của người cổ xưa. Theo cốt truyện, con người luôn đối diện với một thực tế khó khăn luôn phải đương đầu với tai hoạ của thiên nhiên. Được nhắc nhiều nhất trong các huyền thoại của các dân tộc là nạn hồng thuỷ. Hồng thuỷ có ở Cựu Ước, gia đình ông Noê được cứu thoát cùng với nhiều loài gia súc từng đôi một. Ở nhiều huyền thoại của các cư dân khác cũng thấy như vậy. Theo cư dân miền nhiệt đới, hồng thuỷ bắt nguồn từ việc trời mưa kéo dài: “Ba năm, ba tháng, ba ngày” hoặc “Bảy năm, bảy tháng, bảy ngày”. Con số ba và bảy nói đến thời gian rất dài chứ không có ý nói đến đúng hạn thời gian. Con số ba và bảy là con số biểu lộ tính cách tư duy số lẻ của người Đông Phương. Sự tích con Dúi biết được trời mưa rất lớn, có dân tộc giải thích là con Dúi nhờ thường đi lại với người trên thượng giới, như dân tộc Lamét, một nhánh của tộc Khmú dân tộc Lào. Còn có tộc người Vân Kiều giải thích đó là sự thông minh của con Cóc. Người Việt cũng nói “Con Cóc là cậu ông Trời” vì Cóc kêu là mưa sắp tới, đi từ hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng thiên giới.
Cốt truyện còn cho thấy: Bao giờ những người thoát nạn cũng là mẫu người hiền lành, phúc đức. Gầy dựng lại một giống người hiền lành, phúc đức, bởi vì có quá nhiều xung khắc giữa con người làm nghẹt thở lẫn nhau. Cũng vậy, quan niệm Trời cao cũng có mắt để một lúc nào đó nổi giận mà tiêu diệt những kẻ gian ác, xấu xa, để thiên nhiên thuận hoà với con người hơn. Ngươi ta tin có Trời soi xét mọi việc, nên mọi việc oan ức cũng nhờ Trời minh xét mà giải thoát người sống ngay lành.
Trong 96 truyện thu nhập được tại Đông Nam Á, thì có 63 truyện nói đến việc cả hai người chui vào quả bầu để lánh nạn. Quả bầu tại sao quan trọng đến thế? sở dĩ như đã nói nền “Văn hoá Bầu Bí” là nền văn hoá lấy tình thương mà sống với nhau. Khi không còn ở được với nhau thì người ở được với ai. Khi con người bẻ gẫy tương quan người với nhau thì cũng bẻ gẫy tương quan với Trời và với thiên nhiên. Quả Bầu Mẹ, một bài học nhắn nhủ lập lại tính tương giao giữa con người với con người bằng tình huyết thống, lập lại tương quan giữa con người với thiên nhiên như Bài ca Tạo Vật diễn tả: “anh mặt trời, chị mặt trăng” để cuối cùng được tình trời thương đoái. Khi con người ở đuợc với nhau, tìm thấy sự thuận hoà với thiên nhiên thì cũng đẹp lòng với Trời. Từ đó, cũng hình thành một lối sống “dĩ hòa vi quý”, chuộng thanh bình hơn chiến tranh, lấy tâm hơn lấy lý và để minh xét mọi việc người ta dựa vào Trời, tin vào Trời thấy hết và điều khiển mọi sự trong trật tự an hoà.
Hình tượng quả bầu Mẹ có nhiều hình thức diễn tả: Bọc trứng trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dòng con Việt. Trang sử thi Ramana của Ấn Độ có truyện nàng Xumati vợ vua Xagara sinh ra quả bầu chứa sáu vạn đứa con. Người Lào có quả bầu gọi là “Mác Nậm Tao Pung”…
Quan niệm về văn hoá Mẹ là một quan niệm khá phổ biến trong vùng Đông Nam Á, thưở hồng hoang lịch sử có lẽ người ta biết đến Mẹ nhiều hơn cha. Chính vì thế mà quả bầu mẹ có một chỗ đứng quan trọng trong các huyền thoại của các dân tộc.
- Khi tả một cảnh sông nước chú ý trình tự miêu tả từ xa đến gần, từ cao xuống thấp hay tả một cảnh sông nước theo trình tự thời gian: từ sáng "trưa" chiều.
- Các em hãy sử dụng sự liên tưởng để làm cho cảnh vật gần gũi, sinh động hơn.
1. Mở bài: Giới thiệu bao quát:
- Con sông Sài Gòn quê em hiền hòa dang tay ôm thành phố vào lòng.
- Con sông này gắn bó với tuổi thơ em.
2. Thân bài: Tả dòng sông.
a) Buổi sớm:
- Mặt sông phẳng lặng, thấp thoáng trong sương.
- Bãi mía bên kia sông xanh mờ mờ.
- Dãy thuyền chài neo sát bờ le lói ánh lửa nấu cơm sớm.
- Tiếng người í ới, xôn xao chỗ bến đò ngang.
- Tiếng mái chèo khua nước lao xao.
- Nắng lên, mặt nước lấp lánh, dòng sông xanh biếc mang phù sa cuồn cuộn trôi xuôi theo dòng nước.
- Bầu trời xanh trong in bóng xuống mặt hồ.
- Khi có gió nhẹ thổi qua, mặt nước sông nhấp nhô gợn sóng.
- Hoạt động trên bến đò tấp nập, nhộn nhịp.
b) Buổi chiều:
- Người lớn, trẻ con ùa xuống sông tắm mát.
- Dòng sông như dang rộng vòng tay ôm tất cả vào lòng.
- Mặt trời chiều tỏa những tia nắng vàng nhè nhẹ xuống dòng sông.
- Chim chóc nô đùa, vỗ cánh hót vang.
- Trong ánh hoàng hôn, cảnh sông nước càng thêm thơ mộng.
3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em:
- Dòng sông gắn bó thân thiết với tuổi thơ đầy kỉ niệm.
- Dòng sông góp phần làm nên vẻ đẹp của quê hương.