Tham khảo :
Cộng hòa La Mã (tiếng Latinh: Res publica Romana; tiếng Latin cổ: [ˈreːs ˈpuːb.lɪ.ka roːˈmaː.na]) là giai đoạn trong nền văn minh La Mã cổ đại được phân biệt vì có chế độ cộng hòa. Giai đoạn cộng hòa bắt đầu khi chế độ quân chủ bị lật đổ vào khoảng năm 509 TCN và kéo dài hơn 450 năm, đến khi bị hao mòn do loạt nội chiến và được thay bằng chế độ nguyên thủ (Principate) và giai đoạn Hoàng đế. Đúng lúc mà Cộng hòa La Mã trở thành Đế quốc La Mã tùy theo cách hiểu. Các nhà lịch sử đã đề nghị chọn một vài sự kiện, bao gồm khi Julius Caesar được bổ nhiệm làm Thống lãnh tối cao (độc tài suốt đời; 44 TCN), Trận Actium (2 tháng 9 năm 31 TCN), và khi Viện nguyên lão La Mã cấp Octavian các quyền lực đặc biệt theo thỏa thuận đầu tiên giữa Viện nguyên lão và bình dân (16 tháng 1 năm 27 TCN).
Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn-Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Etrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của vua xứ Ipiros là Pyrros vào năm 282 TCN. Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc Chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và Đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải.
Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius là quân lính thường có lòng trung thành với người chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius, hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ.
Vào giữa thế kỉ 1 TCN ba người, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus (Pompey) và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp ước bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaule để tự mình có được danh tiếng quân sự. Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ chối tước hiệu quốc vương. Tuy nhiên, ông nắm quá nhiều quyền lực và trở thành cái gai trong mắt các nguyên lão, và sau đó bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN.
Một chế độ Tam hùng thứ hai, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của Augustus và những cựu trợ thần Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Augustus đánh bại Antonius tại trận chiến Actium vào năm 31 TCN và thôn tính những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông của Antonius. Augustus giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Roma từ một nước cộng hoà thành một đế quốc). Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông.
Định rõ lúc kết thúc của Cộng hòa là việc dành cho nhà lịch sử ngày nay; dân La Mã vào lúc đó không nghĩ rằng Cộng hòa không còn. Các "Hoàng đế" vương triều Julia-Claudia vẫn tuyên bố rằng res publica (thời quần chúng) vẫn tiếp tục, cho dù hoạt động dưới sự bảo vệ của các quyền lực đặc biệt, và sẽ trở lại hình thức Cộng hòa đầy đủ. La Mã vẫn còn là Cộng hòa trên danh nghĩa ít nhất cho đến thế kỷ 3 và cuộc cải cách lập chế độ Dominate (chủ nhân).
TK:
Cộng hòa La Mã (tiếng Latinh: Res publica Romana; tiếng Latin cổ: [ˈreːs ˈpuːb.lɪ.ka roːˈmaː.na]) là giai đoạn trong nền văn minh La Mã cổ đại được phân biệt vì có chế độ cộng hòa. Giai đoạn cộng hòa bắt đầu khi chế độ quân chủ bị lật đổ vào khoảng năm 509 TCN và kéo dài hơn 450 năm, đến khi bị hao mòn do loạt nội chiến và được thay bằng chế độ nguyên thủ (Principate) và giai đoạn Hoàng đế. Đúng lúc mà Cộng hòa La Mã trở thành Đế quốc La Mã tùy theo cách hiểu. Các nhà lịch sử đã đề nghị chọn một vài sự kiện, bao gồm khi Julius Caesar được bổ nhiệm làm Thống lãnh tối cao (độc tài suốt đời; 44 TCN), Trận Actium (2 tháng 9 năm 31 TCN), và khi Viện nguyên lão La Mã cấp Octavian các quyền lực đặc biệt theo thỏa thuận đầu tiên giữa Viện nguyên lão và bình dân (16 tháng 1 năm 27 TCN)