NP

Giới thiệu về một lễ hội ở quê em.

( Cho tớ xin bài viết nào dài dài tẹo ạ )

VM
23 tháng 8 2019 lúc 22:18

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ôn. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

Bình luận (0)
TN
23 tháng 8 2019 lúc 22:19

Mùa xuân về với những cơn mưa phùn nhè nhẹ, với những tia nắng mới ấm áp, với bao cánh đào, cánh mai bung xòe rực rỡ và với không khí lễ hội tưng bừng khắp mọi nẻo đất nước. Năm nay, thủ đô Hà Nội tổ chức lễ hội đua thuyền ở Hồ Tây. Đây là dịp để những người con Hà Nội như tôi có dịp được chứng kiến cảnh tượng nô nức hiếm có này.

Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 9 tháng Giêng Âm lịch, nhằm tạo không khí xuân vui tươi và nâng cao tinh thần đoàn kết cộng đồng. Với những vùng sông nước, hội đua thuyền còn có ý nghĩa khai thông sông nước, cầu một năm mưa thuận, gió hòa. Ngay từ sáng sớm, người dân và du khách tứ phương đã kéo về đông đúc. Lễ khai mạc diễn ra với nhiều tiết mục nghệ thuật đặc sắc và tiếng trống khai xuân rộn vang. Trên sông, hai mươi bảy chiếc chiếc thuyền rồng được trang trí những viền vàng đỏ hoặc vàng xanh xen kẽ rực rỡ. Họ còn cắm lá cờ bảy sắc ở đuôi thuyền. Mỗi thuyền mặc một bộ đồng phục khác nhau và khoác chiếc áo phao màu cam bên ngoài. Những người tham gia đua tươi cười, sẵn sàng tham gia cuộc đua. Khi tiếng trống vang lên ra hiệu cuộc đua bắt đầu, những người đua thuyền vung tay chèo lái. Mái chèo quẫy tung mặt nước. Hồ Tây chẳng còn vẻ lăn tăn sóng gợn. Không khí một lúc một căng thẳng. Ven hồ, những khán giả hò reo cổ vũ. Những hàng liễu, hàng hoa sữa hay bằng lăng ở đó cũng ngả mình theo gió như biết trận đua đang diễn ra tưng bừng. Gió trên hồ khá lớn, làm lá cờ tung bay phấp phới. Những hồi trống vang lên không dứt để tiếp thêm sức mạnh cho các đội người đua thuyền. Em cũng hô vang "Cố lên...! Cố lên..." như mọi người. Thuyền trôi nhanh trên mặt hồ như một chú cá vàng đang bơi. Làn sương mù ngày xuân chẳng cản bước được những chiếc thuyền. Chẳng mấy chốc, một chiếc thuyền đã về đích, vượt qua chiếc băng đỏ bắc ngang trên mặt hồ. Mọi người hò hét chúc mừng đội đua đã vô địch.

Em cảm thấy lễ hội đua thuyền hôm đó rất vui, hào hứng và cuồng nhiệt. Quả thực, lễ hội truyền thống luôn để lại cho thế hệ chúng em những hiểu biết quý báu. Em hi vọng mùa xuân năm sau sẽ lại được xem lễ hội này.

Bình luận (0)
MK
23 tháng 8 2019 lúc 22:19

bài này lấy từ Google, mời bạn tham khảo!

Mỗi vùng quê, mỗi mảnh đất đều có những phong tục tập quán riêng. Và những ngày hội là điều làm nên nét riêng vốn có ấy. Ở quê em cũng vậy, hằng năm cứ vào dịp tết đến lại có ngày hội tổ chức các trò chơi dân gian để mọi người cùng vui chơi và giải trí.

Trò chơi dân gian được làng em tổ chức vào dịp mùng 3 Tết hằng năm, khi tiết trời mùa xuân đang ôm lấy cả đất trời. Không khí tươi mới, rạo rực, niềm vui luôn hiển hiện trên nụ cười của mỗi người. Những trò chơi dân gian được tổ chức tại sân kho của làng. Đó là một cái sân bằng đất rất rộng, đủ để mọi người vui chơi nhiều trò. Nào là trò vất cù, trò chơi chuyền, trò ném pháo đất, trò đấu vật. Mỗi trò đều có một nét đặc trưng riêng tạo nên không khí tưng bừng và phấn khởi nhất.

Đây là lễ hội lớn nhất trong một năm của làng quê em. Có thể nói đây là ngày lưu giữ lại trong lòng người nhiều cảm xúc nhất. Vừa có cái gì đó tươi mới, vừa có cái gì đó gợi lại những điều xưa cũ. Những người đi trước luôn vẫn cảm thấy điều này khi xem các trò chơi dân gian diễn ra.

Những đứa trẻ chúng em chỉ biết thích thú nhìn người lớn chơi và reo hò ầm ĩ. Dù thắng hay thua thì mọi người vẫn luôn giữ được niềm vui và nụ cười ở trên môi. Bởi rằng ngày Tết, tổ chức lễ hội là để ôn lại truyền thống, để gìn giữ và phát huy hơn nữa nét đẹp truyền thống đối với thế hệ trẻ.

Trò chơi nào cũng thu hút được người xem, tuy nhiên lớn nhất vẫn là trò chơi đánh đu. Ai đu cao hơn sẽ giành chiến thắng. Nhiều lúc em có cảm tưởng như người ta sắp rơi khỏi dây vì đu lên quá cao. Trò chơi ném pháo đất với tiếng nổ lớn, vang xa cũng khiến nhiều người xem thích thú.

Người chơi ai cũng nỗ lực chơi hết mình, không mong dành chiến thắng nhưng mang đến cho người xem nhiều tiếng cười cũng như dư âm thú vị sau khi kết thúc. Cứ thế sân kho của làng trở nên đông đúc trong tiết trời se lạnh của những ngày Tết. Ai cũng háo hức, vui mừng khi được đắm chìm trong không khí vui tươi và an lành như thế này.

Mọi người cùng chúc nhau những lời chúc tốt đẹp sau khi lễ hội kết thúc và trao cho nhau những phong bao lì xì đầy may mắn.

Bình luận (0)
MK
23 tháng 8 2019 lúc 22:20

Mời bạn tham khảo thêm vào đường link:http://thuthuat.taimienphi.vn/ke-ve-ngay-hoi-tren-que-huong-em-39563n.aspx

Bình luận (0)
MC
23 tháng 8 2019 lúc 22:36

Cho mih hòi là bn ở đâu

Mih làm bài lễ họi ở quê bn cho 

Bình luận (0)
MC
23 tháng 8 2019 lúc 22:37

Mih có 5 nài lễ hội lun nà

Bình luận (0)
NN
24 tháng 8 2019 lúc 7:51

Nghệ An xưa nay được xem là vùng đất nghèo hiếu học, có rất nhiều nhân tài Xứ Nghệ nổi danh trong, ngoài nước và có nhiều danh thắng đẹp nổi tiếng cũng như có rất nhiều nét đẹp văn hóa mà người Xứ Nghệ dù đi xa vẫn nhớ đến và những người nơi xa từng ghé thăm một lần thì vương vẫn mãi không thể quên được.

  Trong đó giá trị về văn hóa lịch sử luôn là nét đẹp trong suy nghĩ của mỗi người, đến Nghệ An, hãy thăm quan những danh thắng, thăm quan những địa danh tâm linh để hiểu hơn về vẻ đẹp xứ Nghệ. Đền Đức Hoàng là một địa danh văn hóa lịch sử được rất nhiều người biết đến, để hiểu hơn về sự tích cũng như các giá trị văn hóa thì chúng ta cần tìm hiểu kĩ hơn.
 


  Đền Đức Hoàng thuộc xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh chừng 60km về phía Bắc, du khách có thể đến tham quan bằng xe máy hoặc xe buýt tuyến chạy dọc theo đường 538. Đền Đức Hoàng tọa lạc trên một vùng đất rộng, cao hướng ra “Linh đàm Diệu ốc” hương sen tỏa sắc bốn mùa. Với nhiều lần tu sửa trùng tu, nhưng đền vẫn giữ nguyên trạng thái di tích gốc, đảm bảo sự tôn kính thâm nghiêm. Sau đền là rừng cây cổ thụ nguyên sinh, cây xanh tỏa bóng ôm đền vào sự tĩnh lặng nên địa danh này được xem là một trong những cảnh đẹp nổi tiếng nhất nhì của tỉnh nhà Nghệ An. Đền được xây dựng để thờ vị tướng đã có nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, đền có 3 tòa gồm tòa thượng, trung và hạ điện, quy mô kiến trúc không lớn nhưng cổ kính, linh thiêng, trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, đậm đà bản sắc văn hóa của vùng quê xứ Nghệ.
     
  Theo sử sách xưa ghi lại rằng đền Đức Hoàng là công trình văn hóa, tâm linh, được nhân dân xây dựng vào năm 1505 để phụng thờ các vị thần linh đã có công “Bảo Quốc hộ dân”, mà nhân vật trung tâm đó là “Sát Hải Đại Vương” Hoàng Tá Thốn, một vị tướng có tài bơi lội và giỏi võ nghệ đã có nhiều cống hiến lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ thứ XIII. Theo văn bia “Nam miếu tôn thần sự tích” của Cao Xuân Dục – Tổng tài Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn năm 1899, gia phả họ Hoàng và thần tích đền Sát Hải Đại Vương ở thôn Vạn Tràng, thì ngài Hoàng Tá Thốn sinh năm 1254, trong một gia đình làm nghề chài, lưới ở thôn Vạn Phần (nay thuộc xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu). Vốn thông minh, dũng mãnh hơn người và tài võ nghệ, bơi lội nên vào năm 1285, khi giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2, ông được cử vào đội thủy quân thiện chiến và được phong “Nội gia thư” dưới quyền lãnh đạo của chủ tướng Trần Quốc Tuấn. Trong chiến trận, Hoàng Tá Thốn luôn tỏ ra một vị tướng tài ba, nhiều lần lập chiến công xuất sắc. Năm 1288, khi giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 3, Hoàng Tá Thốn được giao trọng trách thống lĩnh hàng vạn quân thủy và tàu chiến, trận chiến thắng thủy quân ta với chiến thuật lặn sâu đục thuyền giặc, phá tan chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trên sông Bạch Đằng đã góp phần to lớn làm nên đại thắng đuổi giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi.
 


  Sau chiến thắng giặc Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông đã phong cho Hoàng Tá Thốn chức “Sát Hải Đại Vương” thống lĩnh quân đội phòng giữ vùng duyên hải. Khi đất nước sạch bóng quân thù, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm thống lĩnh các đội thủy binh, coi giữ 12 cửa biển, bảo vệ đường duyên hải từ miền Trung trở vào. Những năm đất nước hòa bình, độc lập, ông đã tham mưu cho vua Trần Nhân Tông nhiều kế sách trong việc củng cố, xây dựng và rèn luyện võ nghệ cho lực lượng thủy binh. Những lần giặc Chiêm Thành sang giấy rối hải phận nước ta, Hoàng Tá Thốn đã trực tiếp chỉ huy và đánh tan quân giặc. Khi vinh quy bái tổ, thấy cảnh xóm làng tiêu điều, dân tình khổ cực do chiến tranh, thiên tai và dịch bệnh hoành hoành, ông đã bỏ tiền của, cùng các con trai của mình đưa dân cư ven biển Vạn Phần lên vùng đất Yên Thành khai hoang, lập làng, đào đắp các công trình thủy lợi, đưa nước ngọt về tưới tiêu ruộng đồng.

  Thời gian sau ông lâm bệnh và tạ thế vào ngày 01-1-1338, trong một lần đi tuần ở bờ biển thuộc địa phận huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Triều đình nhà Trần vô cùng thương tiếc và cho thuyền rồng chở linh cữu về quê nhà ở làng Vạn Phần, xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu an táng và phong tước hiệu “Trung dũng Bảo dực trung hưng, hộ Quốc tỷ dân, Sát Hải Đại tướng quân, Thiên bồng nguyên soái chi thần” . Ông là một vị tướng tài ba, có công với nước với dân nên khi ông mất đi triều đình đã cho lập đền thờ ở nhiều nơi trong đó có đền Đức Hoàng ở Yên Thành hiện là Đền Hoàng cổ kính, thiêng liêng nhất. Với những nét đẹp về văn hóa, năm 1997 nhà nước đã công nhận đền Đức Hoàng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

  Lễ hội đền Đức Hoàng được tổ chức vào ngày 30/1 - 1/2 (âm lịch) hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương đến tri ân, thăm viếng và trở thành lễ hội có quy mô cấp huyện, cấp tỉnh. Về với lễ hội đền Đức Hoàng du khách như được thả mình trong không gian xanh, sinh thái, trước ban thờ thắp nén hương, như được trở về cố hương sống lại trong hoài cổ. Vào những ngày 28- 29 tháng giêng 01 tháng 2 là ngày đại tế, lễ rước thần linh vi hành quanh hồ Diệu Ốc, cả một vùng trời lộng lẫy cờ lọng, trống chiêng cùng dòng người đông đúc đủ mọi lứa tuổi. Kiệu rồng rước bài vị của 14 dòng họ đại tôn trong vùng hòa mình tiến bước cùng kiệu thần Sát hải đại vương Hoàng Tá Thốn và các linh thần khác thờ tự tại đền Đức Hoàng vào hội. Sau rước thần linh là lễ tân và đại tế, sự quy chuẩn và bài bản trong tế lễ thần linh tại đền, đã thành thông lệ chu tất, trang nghiêm, khoa học, mang tính triết lý xã hội phương Đông. Ngoài việc khôi phục các hoạt động truyền thống, dân gian của phần lễ và phần hội, lễ hội ngày nay còn tổ chức và thường xuyên đổi mới các hoạt động như liên hoan các câu lạc bộ tuồng, các câu lạc bộ dân ca Xứ Nghệ, hội diễn văn nghệ, cắm trại,… Bên cạnh các trò chơi dân gian, các trò chơi hiện đại cũng được lồng ghép trong lễ hội với nhiều hình thức đa dạng, sắc màu; các hoạt động thể dục - thể thao như bóng chuyền Nam, Nữ, cầu lông, bóng bàn được tổ chức sôi nổi. Trong những năm đổi mới, đền Đức Hoàng được các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân công đức tu bổ tôn tạo, chống xuống cấp, khuôn viên di tích được quy hoạch và mở rộng.

  Những vẻ đẹp văn hóa cần được lưu giữ bảo tồn để nét đẹp ấy mãi trường tồn theo thời gian. “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”, đó là cái mà mỗi con người khi đi xa đều nhớ về, đó là nét đẹp của xóm làng sau lũy tre, là nét đẹp của quê hương, đất nước, con người Việt Nam. 

Bình luận (0)
LP
24 tháng 8 2019 lúc 8:29

Dàn ý Thuyết minh về một lễ hội truyền thống

Mở bài

Giới thiệu lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

Thân bài:

Giới thiệu những đặc điểm của lễ hội theo kết cấu thời gian kết hợp với kết cấu logic.

– Trình bày thời gian tổ chức lễ hội, địa điểm, nguồn gốc lễ hội:

+ Thời gian cụ thể (thời gian ấy gắn với ý nghĩa lịch sử như thế nào).

+ Địa điểm tổ chức lễ hội.

+ Nguồn gốc,lí do tổ chức lễ hội (tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống hay thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại).

– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:

+ Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.

+ Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).

+ Chuẩn bị về địa điểm…

– Giới thiệu diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thường lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội.

+ Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.

+ Nếu là lễ hội thể hiện khí thế của thời đại: tuyên bố lí do; các đại biểu nêu ý nghĩa, cảm tượng vè lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)

– Đánh giá về ý nghĩa lễ hội.

Kết bài:

Khẳng định lại ý nghĩa lễ hội.

Chú ý: bài văn viết đúng với phong cách của văn thuyết minh, có thể kết hợp thêm các yếu tố miêu tả (đặc điểm, tiến trình của lễ hội), biểu cảm (nêu cảm nhận về ý nghĩa của lễ hội); trình bày sạch đẹp, logic.

Thuyết minh về một lễ hội truyền thống

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ôn. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

Bình luận (0)
NP
24 tháng 8 2019 lúc 18:18

Cảm ơn các bạn nhé 

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
DN
Xem chi tiết
MN
Xem chi tiết
DN
Xem chi tiết
DN
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
HQ
Xem chi tiết
BL
Xem chi tiết
HC
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết