CN

Bác Hồ có bao nhiêu tên

KI
25 tháng 7 2021 lúc 9:55

Hồ Chí Minh  tổng cộng 175 tên và bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông.

Bình luận (0)
H24
25 tháng 7 2021 lúc 9:58

Theo Tư liệu Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh  tổng cộng 175 tên và bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông.

(kím trên mạng)

Bình luận (0)
MH
25 tháng 7 2021 lúc 9:59

175 tên

Bình luận (0)
L3
25 tháng 7 2021 lúc 14:38

Hồ Chí Minh có tổng cộng 175 tên và bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông[1]. Có những tên gọi trở nên phổ biến, được nhiều người biết đến và gắn liền với các sự kiện quan trọng trong cuộc đời ông, như Nguyễn Ái Quốc dùng hầu hết thời kì ở Pháp khi viết báo; nhưng cũng có những tên gọi chỉ được sử dụng một lần duy nhất và rất ít người biết đến. Thế nhưng, tên gọi Hồ Chí Minh trở thành tên gọi chính thức của ông với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bút hiệu thường dùng[sửa | sửa mã nguồn]Hồ Chí Minh: Từ 13 tháng 8 năm 1942 đến 2 tháng 9 năm 1969.C.M.Hồ: Dùng tại 3 tài liệu viết từ tháng 7 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945.H.C.M.: Dùng tại 8 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 12 năm 1966.Nguyễn Ái Quốc: Từ năm 1914 đến tháng 8 năm 1942.N.A.Q.: Dùng tại 8 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1922 đến tháng 9 năm 1930.N. ÁI QUỐC: Dùng 1 lần ngày 16 tháng 12 năm 1927.NG.A.Q: Dùng 1 lần ngày 1 tháng 8 năm 1922.NGUYỄN.A.Q: Dùng tại 2 tài liệu ngày 14 tháng 10 năm 1921 và ngày 1 tháng 8 năm 1922.Nguyễn Ái Dân: dùng trong bức thư gửi cán bộ ngành Y tế đăng trên Báo Nhân Dân nhân kỉ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/02/1955.Bút hiệu thân mật[sửa | sửa mã nguồn]Bác: Tên gọi “Bác” xuất hiện từ dịp họp hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5 năm 1941 ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.Bác Hồ: Dùng tại 119 tài liệu viết từ 27 tháng 10 năm 1946 đến 21 tháng 7 năm 1969.Chú Nguyễn: Dùng 1 lần tháng 3 năm 1923.Bút hiệu khác[sửa | sửa mã nguồn]

(xếp hạng thứ tự theo bảng chữ cái)

Albert de Pouvourville: Dùng trên Báo Điện Tín Thuộc Địa năm 1920.[1]A.G.: Dùng tại 7 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1947 đến tháng 1 năm 1950A.P.: Dùng 1 lần trong bài "Văn minh Pháp ở Đông Dương" - tạp chí Inpekorr.Tiếng Đức. số 17. 1927.Bình Sơn: Dùng tại 10 tài liệu viết từ tháng 11 năm 1940 đến tháng 12 năm 1940.C.B.: Dùng tại 147 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 3 tháng 1957 (trên báo Nhân dân)Chen Vang: Dùng năm 1923.[1]C.K.: Dùng tại 9 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 3 năm 1960.Chiến Thắng: Dùng tại 8 tài liệu viết từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 10 năm 1945.Chiến Sĩ: Dùng tại 128 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 7 năm 1969.Cuồng Điệt Tất Thành, C.Đ. Tất Thành: Dùng 1 lần năm 1914.[2]Din: Dùng tại 3 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1952 đến tháng 7 năm 1953.Đ.X.: Dùng tại 51 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, (trong chuyên mục "Thường thức chính trị" trên báo Cứu quốc)H.B: Dùng một lần tại bài "Có phê bình phải có tự phê bình" - Báo Nhân dân số 488 ngày 4 tháng 7 năm 1955.Henri Tren: Ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp năm 1922.[1]HOWANG T.S.: Dùng 1 lần tại Báo cáo trong Đại hội công nhân và nông dân ngày 2 tháng 5 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc).Hồ:Dùng tại 7 tài liệu từ tháng 5 năm 1945 đến tháng 2 năm 1947.H.T.: Dùng 1 lần tại bài "Bà Trưng Trắc" đăng trên báo Thanh Niên, số 72 ngày 12 tháng 12 năm 1926.La Lập: Dùng 1 lần tại báo Nhân dân số 4530 ngày 1 tháng 9 năm 1966.Lê Ba: Dùng 1 lần tại bài "Trả lời ông Menxphin thượng nghị sĩ Mỹ" ngày 20 tháng 4 năm 1966 (báo Nhân dân số 4407).Lê Nhân: Dùng 1 lần tại bài "Thất bại và thành công" - báo Nhân dân số 117 ngày 19 tháng 8 năm 1949.Lin: Dùng tại 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939.L.T.: Dùng tại 4 tài liệu viết từ tháng 4 năm 1925 đến tháng 5 năm 1954.Lý An Nam: Dùng thay thế với tên Lý Thụy.Lý Mỗ: Xuất hiện trong bài báo trên Báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu, số 20, ra ngày 14 tháng 7 năm 1925.Lý Thụy: Dùng tại 2 tài liệu từ ngày 18 tháng 12 năm 1924 đến ngày 6 tháng 1 năm 1926. Cũng dùng khi làm phiên dịch cho phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn năm 1924.Mai Hữu Phúc: Dùng 1 lần.N.: Dùng tại 5 tài liệu từ tháng 2 năm 1922 đến tháng 1 năm 1924.N.A.K.: Dùng 2 lần trong: "Thư gửi Quốc tế nông dân" ngày 3 tháng 2 năm 1928 và thư báo cáo "Cuộc đình công lớn của công nhân dầu lửa" gửi Quốc tế Cộng sản ngày 6 tháng 3 năm 1931.[3]N.K.: Dùng một lần tại bài "Sự thống trị của đế quốc Pháp tại Đông Dương"-Tạp chí Inprekorr. bản tiếng Pháp. ngày 15 tháng 10 năm 1927.Nguyễn: Dùng tại 2 tài liệu từ tháng 4 năm 1924 đến tháng 8 năm 1928.Nguyễn Du Kích: Dùng một lần khi dịch cuốn "Tỉnh ủy bí mật" (tác giả: A. F. Phedorov) từ tiếng Nga sang tiếng Việt vào đầu năm 1950 [4]Nói Thật:Nilốxki: Dùng tại 6 tài liệu từ tháng 10 năm 1925 đến tháng 3 năm 1926.Ông Lu: Dùng 1 lần ngày 12 tháng 11 năm 1924.[5]P.C.Lin: Dùng tại 8 tài liệu từ tháng 12 năm 1938 đến tháng 7 năm 1939.Pôn: Dùng 1 lần ngày 27 tháng 2 năm 1930.Q.T.: Dùng tại 10 tài liệu từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946.Q.TH.: Dùng tại 14 tài liệu từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 10 năm 1946.Tất Thành: Dùng 4 lần năm 1914.[2]T.L.: Dùng tại 80 tài liệu từ tháng 4 năm 1950 đến tháng 6 năm 1969.T.Lan: Dùng 1 lần viết cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện[6].Tân Sinh: Dùng 1 lần tháng 1 năm 1948.Tân Trào:Thanh Lan:Thu Giang:Trần Lực: Dùng tại 25 tài liệu từ tháng 3 năm 1949 đến tháng 1 năm 1961.Trần Thắng Lợi: Dùng 1 lần ngày 18 tháng 1 năm 1949.V.: Dùng tại 2 tài liệu đều trong tháng 2 năm 1931.V.K.: Dùng 1 lần trong bài "Kiều bào ta ở Thái Lan luôn hướng về Tổ Quốc" ngày 3 tháng 1 năm 1960.VICHTO: Dùng tại 5 tài liệu từ tháng 9 năm 1930 đến tháng 4 năm 1935.Vương: Dùng năm 1925, khi làm giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu và khi liên lạc với Nguyễn Lương Bằng.WANG: Dùng tại 6 tài liệu từ tháng 9 năm 1927 đến tháng 6 năm 1928.X. và XX.: Dùng tại 7 tài liệu từ tháng 12 năm 1926 đến tháng 3 năm 1927.X.Y.Z.: Dùng tại 10 tài liệu từ tháng 10 năm 1947 đến tháng 9 năm 1950.Bút hiệu chưa thể khẳng định[sửa | sửa mã nguồn]CULIXE: Dùng 1 lần ngày 13 tháng 2 năm 1922 (bản gốc tài liệu tiếng Pháp đề: "CULIXE - Nguyễn Ái Quốc dịch")Lê Thanh LongLOO SHING YAN: Dùng 1 lần ngày 12 tháng 11 năm 1924 (bản gốc tài liệu đánh máy bằng tiếng Pháp đề: "LOO SHING YAN - Nữ đảng viên Quốc dân Đảng")[7]Trầm Lam:Trần Dân Tiên: Dùng 1 lần để viết tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch..."[8].Henry VuuT.Lan: Dùng 1 lần để viết tác phẩm "Vừa đi đường vừa kể chuyện".Tuyết Lan:Việt Hồng:Biệt danh và bí danh khác[sửa | sửa mã nguồn]

Chỉ dùng để hoạt động bí mật, không dùng để viết sách báo.

Hồ Quang: 1939-1940, dùng tại Côn Minh và Quế Lâm, Trung Quốc.[cần dẫn nguồn]Line: 1938, dùng tại Diên An, Trung Quốc.[cần dẫn nguồn]Paul Tất Thành: 1912.[cần dẫn nguồn]Thầu Chín: 1928-1929, dùng tại Thái Lan.Tống Văn Sơ (Sung Man Cho): 1930-1933, dùng khi bị bắt giam tại nhà tù Victoria, Hong Kong trong Vụ án Tống Văn Sơ.[9][10]Văn Ba (đầy đủ: Nguyễn Văn Ba): tên này được sử dụng trong suốt thời gian ông làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latouche Teverille, từ ngày 5/6/1911. Trong sổ lương của tàu có tên Văn Ba[5].Bút hiệu Nguyễn Ái Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Ái Quốc là danh hiệu được dùng ký đại diện cho Hội những người An Nam yêu nước (Association des Patriotes Annamites) trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications du peuple annamite). Văn bản này được gửi tới Hội nghị Versailles vào năm 1919 nhân khi các cường quốc đang nhóm họp. Nguyễn Ái Quốc cũng là cái tên mới mà Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) tự gọi mình, ít nhất kể từ tháng 9 năm 1919,[10] và sẽ sử dụng trong suốt 23 năm sau đó.

Nhận định của sử gia Việt Nam

Về tác giả và bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của bản yêu sách trên, nhà sử học Dương Trung Quốc viết đó là: "một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, được gọi là nhóm Ngũ Long[11] đứng đầu là cụ Phan Châu Trinh và trẻ tuổi là Nguyễn Tất Thành cùng viết một văn bản gửi Hoà hội Versailles đưa ra 'Những yêu sách của người An Nam' và được ký bằng cái tên chung là "Nguyễn Ái Quốc"".[12]

Nhận định của sử gia ngoại quốc

Daniel Hémery cũng cho rằng "Nguyễn Ái Quốc" là bút hiệu chung của nhóm bốn người hoạt động tranh đấu cho dân quyền Việt Nam tại Pháp vào đầu thế kỷ 20, đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành.[13] Theo Sophie Quinn-Judge, căn cứ trên bản tiếng Pháp của yêu sách Revendications du peuple annamite (Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam) được đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo) ngày 18 tháng 6 năm 1919 thì luật sư Phan Văn Trường là người soạn.[9]. Vì ba ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền đã sinh hoạt tại Pháp khá lâu nên cả ba bị mật thám Pháp theo dõi chặt chẽ nên không dám lộ diện. Riêng Nguyễn Tất Thành vì là người mới tới (từ Anh sang Pháp năm 1919) nên nhà chức trách ít cản trở hơn cả, lại được giao nhiệm vụ liên lạc với giới báo chí nên danh hiệu "Nguyễn Ái Quốc" sau này gắn liền với Nguyễn Tất Thành.[14]

Nguyễn Tất Thành là người đã đưa tận tay bản kiến nghị cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và tổng thống Pháp, cũng như trao bản kiến nghị cho các đoàn đại biểu Đồng minh và sau đó tự gọi mình là Nguyễn Ái Quốc.[10] Theo William Duiker, nhà cầm quyền Pháp lần đầu biết đến cái tên "Nguyễn Ái Quốc" là ở bản yêu sách này. Tổng thống Pháp đã yêu cầu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut xác định danh tính của người có tên Nguyễn Ái Quốc. Đến tháng 8 năm 1919, cùng bản yêu sách, cái tên Nguyễn Ái Quốc đã được lan truyền rộng rãi ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 9 năm 1919, trong một cuộc phỏng vấn bởi phóng viên Mỹ của một tờ báo tiếng Hoa ở Paris, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc tuy vẫn giấu tên thật.[10] Theo báo cáo năm 1920 của Pierre Guesde cho Bộ thuộc địa, mật thám Pháp đã nhận dạng chính xác Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành. Từ đó, cái tên Nguyễn  Ái Quốc đã được Nguyễn Tất Thành sử dụng trong suốt 30 năm sau đó

Bình luận (2)
RT
25 tháng 7 2021 lúc 15:32

Hồ Chí Minh có tổng cộng 175 tên và bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác.

Bình luận (0)
NC
25 tháng 7 2021 lúc 16:49

Bác Hồ có 175 tên khác nhau

Bình luận (0)

đáp án : 175 tên 

 

Bình luận (0)
VV
26 tháng 7 2021 lúc 9:12

175 tên

Bình luận (0)

175 tên nha

Bình luận (0)
CN
1 tháng 8 2021 lúc 21:07

có 175 tên

Bình luận (0)
PA
7 tháng 8 2021 lúc 9:09

175 ten

Bình luận (0)
PA
7 tháng 8 2021 lúc 9:13

175 ten

Bình luận (0)
NT
10 tháng 8 2021 lúc 9:42

Bác Hồ có 152 tên gọi, bút danh, bí mật.

Bình luận (0)
NN
28 tháng 9 2021 lúc 11:07

Hồ Chí Minh có tổng cộng 175 tên và bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông.

  
Bình luận (0)
ML
19 tháng 2 2022 lúc 11:36

175 tên

Bình luận (0)
H24
20 tháng 12 2023 lúc 20:51

Bác Hồ có 175 cái tên

Bình luận (0)
TT
23 tháng 12 2023 lúc 21:19
Danh sách và ý nghĩa của từng tên

Sau khi đã tìm hiểu Bác Hồ có bao nhiêu tên thì tiếp theo đây, BachkhoaWiki sẽ cùng bạn liệt kê danh sách và ý nghĩa của từng tên nhé!

Nguyễn Sinh Cung (1890) – tên khai sinh của Bác.Nguyễn Sinh Côn (1954) – tên lúc nhỏ được Bác ghi trong một bài viết.Nguyễn Tất Thành (1901) – tên gọi mới do cha đặt cho Bác trong lễ chào làng khi chuyển về sống tại làng Kim Liên.Nguyễn Văn Thành – đang cập nhật.Nguyễn Bé Con (1920) – bút danh trong tài liệu mật thám Pháp theo dõi các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, bản ghi số 1116, 1931.Văn Ba (1911) – tên gọi của Bác khi làm việc trên chuyến tàu sang Pháp tìm đường cứu nước.Paul Tat Thanh (1912) – tên được ký trên lá thư mà Nguyễn Tất Thành từ New York gửi cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy.Tất Thành (1914) – tên được ký trên lá thư Bác gửi Phan Chu Trinh. Hiện tại, có tổng cộng 4 lá thư được ký dưới cái tên này. Trong số đó gồm có một thư ký Cuồng Điệt Tất Thành, ba thư ký C.Đ Tất Thành.Paul Thanh (1915) –  tên trong bức thư Bác viết gửi cho toàn quyền Đông Dương qua lãnh sự Anh tại Saigon nhờ tìm địa chỉ cha mình.Nguyễn Ái Quốc (1919) – tên gọi khi chính thức gia nhập chung vào nhóm cứu quốc của Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trưởng,…Phéc-đi-năng – đang cập nhật.Albert de Pouvourville (1920) – cái tên được sử dụng trong tờ báo Điện Tín Thuộc Địa có truyền đơn trích đoạn từ nhiều tờ báo khác nhau có liên quan tới vấn đề Đông Dương.Nguyễn A.Q. (1921-1926) – xuất hiện trong hai bài báo ký tên Nguyễn A.Q. có tựa “Hãy Yêu Mến Nước Pháp, Người Bảo Hộ Các Anh” được đăng trên báo Người Tự Do.Culixe (1922) – xuất hiện trong một bài viết trên L’Humanité ngày 18/3/1922.

danh sach va y nghia cua tung ten

N.A.Q. (1922) – bút danh trên báo Le Paria và L’Humanité giai đoạn 1922-1930.Ng.A.Q. (1922) – bút danh trên báo Le Paria từ 1922-1925.Henri Tran (1922) – Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Số thẻ: 13861.N. (1923) – trong các năm 1923-1928 trên Le Paria.Chen Vang (1923) – tên trong giấy đi đường được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Liên Bang tại Berlin cấp cho, số 1829.Nguyễn (1923) – trong các năm 1923, 1924, 1928 trên Le Paria.Chú Nguyễn (1923) – trong thư gửi đến các bạn cùng hoạt động tại Pháp trước khi rời Paris đi Liên Xô.Lin (1924) – trong thời gian ở Liên Xô từ 1923-1924 và 1934-1939.Ái Quốc (1924) – tên ghi trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản, tháng 6 năm 1924.Un Annamite (1924) – ký dưới một bài viết trên Le Paria.Loo Shing Yan (1924) – bài “Thư Từ Trung Quốc, số 1”, ngày 12/11/1924, Bác viết về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự thức tỉnh, giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc, gửi đến tạp chí Rabotnhitxa.Ông Lu (1924) – trong bức thư được viết ngày 12/11/1924 gửi cho một đồng chí trong Quốc Tế Cộng Sản báo tin Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu, Trung Quốc.Lý Thụy (1924) – trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc.Lý An Nam (1924-1925) – trong thời gian hoạt động ở Quảng Châu.

danh sach va y nghia cua tung ten

Nilopxki (N.A.Q.) (1924) – ký tên trong 6 bức thư khi Bác đang làm việc tại cơ quan của Borodin, Quảng Châu, Trung Quốc.Vương (1925) – khi làm giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu.L.T. (1925) – bút danh ký trên lá thư gửi cho ông H (Thượng Huyền) ngày 9/4/1925 và 15 bài trên báo Nhân Dân từ các năm 1949, 1957, 1958, 1960.Howang T.S. (1925) – bút danh trên đại hội công nhân và nông dân ngày 2/5/1925.Z.A.C. (1925) – đăng trên báo Thanh Niên.Lý Mỗ (1925) – bút danh trên báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu, số 20, ra ngày 14/7/1925.Trương Nhược Trừng (1925) – đang cập nhật.Vương Sơn Nhi (1925) – bút hiệu trên báo Thanh Niên.Vương Đạt Nhân (1926) – tham dự và phát biểu ý kiến tại cuộc họp diễn ra ngày 14/1/1926 do Đoàn Chủ Tịch Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Quốc Dân Đảng Trung Quốc mời.Mộng Liên (1926) – ký dưới bài viết “Mục Dành Cho Phụ Nữ” đăng trên báo Thanh Niên, số 40, ngày 4/4/1926.H.T. (1926) – bút danh của Nguyễn Ái Quốc viết bài cho báo Thanh Niên.Tống Thiệu Tổ (1926) – bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc theo lời kể của một số người.X.X. (1926) – bút danh trên một bài đăng trong Inprekorr, số 91, ngày 14/8/1926.Wang (1927) – trong bài viết đăng trên Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr).

danh sach va y nghia cua tung ten

Liwang (1927)  – trong thư Nguyễn Ái Quốc gửi từ Berlin về cho Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, đề nghị giúp đỡ tiền để về nước.Ông Lai (1927) – cũng trong thư gửi Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, ngày 16/12/1927.Nam Sơn (1928) – biệt hiệu đi cùng với tên Thọ khi Nguyễn Ái Quốc giới thiệu mình tại cuộc họp với người Việt cư ngụ tại Thái Lan.Chín (Thầu Chín) (1928) – tên được dùng khi sang Udon, Thái Lan vào đầu tháng 8/1928.Victor Lebon (1930) – tên địa chỉ nhận thư khi liên lạc với đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế cộng Sản và các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Liên Xô. Địa chỉ: Victor Lebon, 123 av. de la République, Paris, France.Tiết Nguyệt Lâm (1930) – trong thư Nguyễn Ái Quốc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới, địa chỉ: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.T.V. Wang (1930) – tên ký trong thư gửi Ban Phương  Đông, Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về tình hình Mã Lai, Đông Dương và việc gửi 3 học sinh đi học được viết ngày 2/3/1930.Công Nhân (1930) – bút danh trong bài viết “Tranh Thủ Quần Chúng Như Thế Nào?”, báo Vô Sản, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, số 1, 31/8/1930.Victo (1930) – bí danh trong bức thư gửi Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản báo cáo về cuộc đấu tranh từ ngày 11-17/9/1930 của nông dân các tỉnh Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghệ An… viết ngày 29/9/1930.V. (1931) – bí danh trong bài viết “Nghệ Tỉnh Đỏ”, ngày 19/2/1931. Đồng thời, Bác cũng dùng bí danh này gửi báo cáo cho Ban Phương Đông liên quan đến chỉ thị việc tổ chức Đảng Cộng Sản Đông Dương, 8/2/1931.K. (1931) – trong thư gửi Ban Phương Đông ngày 21/2/1931 báo tin Lý Tự Trọng bắn chết mật thám Legrant và đã bị bắt.Đông Dương (1931) – bút hiệu trên bài viết “Kỷ Niệm  Một Năm Khởi Nghĩa Yên Bái”, Tạp Chí Thư Tín Quốc Tế, 1931, số 12.K.V. (1931) – bí danh trong thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.Lão Trịnh (1931) – trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, thời gian trước khi bị bắt ở Hongkong (1918/1931.

danh sach va y nghia cua tung ten

Năm (1931) – đang cập nhật.Lý Phát (1931) – đang cập nhật.Viên (1931) – đang cập nhật.Tống Văn Sơ (1931) – tên trong thẻ căn cước khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong, ngày 6/6/1931.Hồ Quang (1938) – tên trên giấy tờ khi hoạt động ở Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc.Hồ Chí Minh (1942) – tên mới khi hoạt động tại Trung Quốc nhằm đánh lạc hướng kẻ thù.Cụ Hoàng (1945) – tên công khai trên giấy tờ khi giao thiệp với các cơ quan của Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít tại Bixichai, Côn Minh vào cuối tháng 2/1945.C.M.Hồ (1945) – ký tên dưới thư gửi ông Fenn, ông Tam vào tháng 7 và 8 năm 1945.Ông Ké (1945) – bí danh được giới thiệu khi đến chiếc lán ở Pác Tẻng (chân núi Lam Sơn, Cao Bằng) của gia đình đồng chí Hoàng Đức Triều (An Định) vào chiều cuối tháng 4/1945.Hồ Chủ Tịch (1945) – xuất hiện sau khi tuyên bố có “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”.Bác Hồ (1946) – trong thư gửi cho các thanh thiếu niên, học sinh cũng như phổ biến trong quần chúng, sách báo và học đường.X.Y.Z. (1947) – bút danh này được dùng từ 1947-1950 trong các sách “Sửa Đổi Lối Làm Việc”, tháng 10/1947 và viết bài cho báo Sự Thật 1948-1950; bài “Dân Vận”, số 120, ngày 15/10/1949.Lê Quyết Thắng (1948) – trong bài viết“Cần Kiệm Liêm Chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ra ngày 30, 31/5 và 1,2/6/1949 và in thành sách.Trần Thắng Lợi (1949) – viết bài “Đảng Ta” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Nội Bộ số 13, 1/1949.tổng cộng Bác có 175 tên
Bình luận (0)
TT
23 tháng 12 2023 lúc 21:21

ok thì cho mình 1 like nhé

🍕🌭🧇🍞🥯🥖🥞🥚🥡🍱🦪🍥🍙🍢🥘🥮🍣🍛🍘🥠🥪🥙🥗🥡🌯

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
NT
Xem chi tiết
NT
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
PK
Xem chi tiết
ND
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
LD
Xem chi tiết