Hướng dẫn soạn bài Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
1
6 gp

(Đang tiến hành)

TỤC NGỮ VỀ THIÊN NHIÊN​ VÀ LAO ĐỘNG SẢN XUẤT

I. THỂ LOẠI

Tục ngữ:

→ Là một thể loại văn học dân gian.

→ Nội dung: kinh nghiệm, tri thức của nhân dân lao động về

     - Tự nhiên

     - Lao động sản xuất

     - Con người

     - Xã hội

→ Hình thức: những câu nói ngắn gọn, hàm súc, có nhịp điệu, giàu hình ảnh, ...

→ Giá trị sử dụng:

   - Trong các hoạt động của con người:

     + Kinh nghiệm quan sát và dự báo các hiện tượng thiên nhiên

     + Kinh nghiệm trong lao động sản xuất

     + Kinh nghiệm trong cách nhìn nhận đánh giá con người, cách đối nhân xử thế ở đời

   - Trong ngôn ngữ (lời ăn tiếng nói):

     + Làm cho sự diễn đạt thêm sinh động, hàm súc

     + Làm phong phú thêm cho ngôn ngữ

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Đọc kĩ các câu tục ngữ và chú thích trong bài để hiểu văn bản và những từ ngữ khó.

2. Có thể chia những câu tục ngữ thành hai nhóm:

- Nhóm câu tục ngữ về thiên nhiên: câu 1, 2, 3, 4.

- Nhóm câu tục ngữ về lao động sản xuất: câu 5, 6, 7, 8.

3. Phân tích nội dung từng câu tục ngữ:

(1) Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng

Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

- Nói về kinh nghiệm thời tiết ở nước ta.

- Vào mùa hè tháng 5 thì ngày dài, đêm ngắn. Còn mùa đông thì ngày ngắn, đêm dài.

- Cách nói quá có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm này qua hai cụm từ "chưa nằm đã sáng", "chưa cười đã tối" cùng phép đối xứng hai vế câu nhấn mạnh tính chất của đêm mùa hạ và ngày mùa đông.

(2) Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.

- Nói về kinh nghiệm dự đoán thời tiết. Xưa, khi công nghệ dự báo chưa xuất hiện, ông cha ta có thể dự báo thời tiết ngày hôm sau bằng việc quan sát bầu trời vào buổi tối.

- "Mau sao" là những hôm trời nhiều sao thì hôm sau thường sẽ nắng và ngược lại.

☛ Kinh nghiệm này vẫn được ông cha ta sử dụng, tuy nhiên chỉ dựa vào phán đoán và kinh nghiệm thì chưa đủ.

(3) Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.

- Là kinh nghiệm về thời tiết trước khi có bão.

- "Ráng mỡ gà" là ráng màu vàng của mây do mặt trời chiếu vào, nó ngả thành màu vàng giống như màu mỡ gà, thường xuất hiện ở phía chân trời trước khi có bão.

- Nhìn vào đó, người ta có thể biết trước để lo chống giữ nhà cửa để hạn chế thấp nhất hậu quả do bão gây ra.

☛ Cấu trúc hai vế câu ngắn gọn khiến ai nghe qua cũng có thể nhớ ngay được. Ngày nay, khoa học đã phát triển, ta có thể dự báo được gần như chính xác diễn biến của từng cơn bão nhưng kinh nghiệm dân gian vẫn có giá trị đến ngày hôm nay.

(4) Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.

- Vào tháng bảy, nếu thấy kiến di chuyển (bò) thì khả năng sắp có mưa lớn và lụt lội xảy ra.

- Kiến là loại côn trùng nhạy cảm. Khi sắp có mưa lụt, chúng thường di chuyển tổ lên chỗ cao, vì vậy chúng bò ra khỏi tổ. (Trước trận mưa rào, Trần Đăng Khoa quan sát thấy: kiến/ hành quân/ đầy đường.)

- Câu tục ngữ được đúc kết từ quan sát thực tế, nó nhắc nhở về ý thức phòng chống bão lụt, loại thiên tai thường gặp ở nước ta.

(5) Tấc đất tấc vàng

– Đất được coi quý ngang vàng.

– Đất thường tính bằng đơn vị mẫu, sào, thước (diện tích). Tính tấc là muốn tính đơn vị nhỏ nhất (diện tích hay thể tích). Vàng là kim loại tính đếm bằng chỉ, bằng cây (dùng cân tiểu li để cân đong). Đất quý ngang vàng (Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu).

– Đất quý như vàng vì đất nuôi sống con người, tiềm năng của đất là vô hạn, khai thác mãi không bao giờ vơi cạn.

– Người ta sử dụng câu tục ngữ này để đề cao giá trị của đất, phê phán việc lãng phí đất (bỏ ruộng hoang, sử dụng đất không hiệu quả).

(6) Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.

– Câu này nói về giá trị kinh tế khi khai thác ao, vườn, ruộng. Cũng có thể nói về sự công phu, khó khăn của việc khai thác các giá trị kinh tế ở các nơi đó. Ruộng thì phổ biến, chỉ để cấy lúa hay trồng cây lương thực, hoa màu. Vườn thì trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ. Ao thả cá, thả rau muống,... Kĩ thuật canh tác rất khác nhau. Người xưa đã tổng kết về giá trị kinh tế, cũng có thể kèm theo đó là độ khó của kĩ thuật.

– Áp dụng câu tục ngữ để khai thác tốt điều kiện tự nhiên, làm ra nhiều của cải vật chất.

(7) Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.

– Câu tục ngữ nói về vai trò của các yếu tố trong sản xuất nông nghiệp (trồng lúa nước) của nhân dân ta.

– Yếu tố nước phải là yếu tố quan trọng hàng đầu, nếu bị úng, hay bị hạn, mùa vụ có thể bị thất thu hoàn toàn. Sau đó là vai trò quan trọng của phân bón. Yếu tố cần cù, tích cực chỉ đóng vai trò thứ ba. Giống đóng vai trò thứ tư. Tuy nhiên, nếu ba yếu tố trên ngang nhau, ai có giống tốt, giống mới thì người đó sẽ thu hoạch được nhiều hơn.

– Câu tục ngữ nhắc nhở người làm ruộng phải đầu tư vào tất cả các khâu, nhưng cũng phải chú ý ưu tiên, không tràn lan, nhất là khi khả năng đầu tư có hạn.

(8) Nhất thì, nhì thục.

– Câu tục ngữ nêu vai trò của thời vụ (kịp thời) là hàng đầu. Sau đó mới là yếu tố làm đất kĩ, cẩn thận. Thời vụ liên quan đến thời tiết, nắng mưa. Nếu sớm quá, muộn quá, cây trồng sẽ bị ảnh hưởng và có khi không cho sản phẩm.

– Câu tục ngữ nhắc nhở vấn đề thời vụ và việc chuẩn bị đất kĩ trong canh tác.

4. Minh hoạ đặc điểm hình thức của tục ngữ:

– Ngắn gọn: Mỗi câu tục ngữ chỉ có một số lượng từ không nhiều. Có câu rất ngắn như câu:Tấc đất, tấc vàng; Nhất thì, nhì thục.

– Thường có vần, nhất là vần lưng. Hầu như câu tục ngữ nào cũng có vần. Ví dụ: nhất thì, nhìthục; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.

– Các vế đối xứng nhau cả về hình thức và nội dung. Ví dụ như 2 vế của câu 1, câu 2, câu 3.

– Lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh. Lời trong tục ngữ cô đọng, mỗi lời như dồn nén, không có từ thừa. Các hình ảnh ví von như chưa nằm, chưa cười, các hình ảnh thiên nhiên như sao, ráng, đất, vàng,...


Danh sách các phiên bản khác của bài học này. Xem hướng dẫn
Puo.Mii (Pú) đã đóng góp một phiên bản khác cho bài học này (13 tháng 3 2021 lúc 21:21) 1 lượt thích

Khách