Ai đã đặt tên cho dòng sông ?

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
5 coin

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

 

1. Về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

a. Cuộc đời:

HPNT sinh ngày 9-9-1937, quê gốc ở làng bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Quá trình hoạt động của HPNT có thể tóm tắt như sau:

-Năm 1960: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn khóa I, ban Việt Hán.

-Năm 1964: Nhận bằng cử nhân triết, Đại học Văn khoa Huế.

-Năm 1960 – 1966: Dạy trường Quốc học Huế.

-Từ 1963, tham gia phong trào học sinh, sinh viên và trí thức Huế với tư cách là Tổng thư kí Hội Sinh viên Huế.

-Năm 1966 – 1975: Tham gia kháng chiến chống Mỹ.

-Từ 1975 cho đến khi nghỉ hưu: vừa sáng tác, vừa tham gia công tác quản lí tại các Hội văn nghệ Thừa Thiên Huế và Quảng Trị. Ông từng là Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

-Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cùng đợt với vợ ông là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

b. Sự nghiệp:

HPNT có một nghị lực phi thường của một người lao động sáng tạo nghệ thuật. Anh là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Đề tài của tác phẩm HPNT khá rộng lớn. Bởi anh là người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và viết say mê về họ. Trong sáng tác của HPNT hiện lên nhiều cảnh sắc và con người khắp mọi miền đất nước và thế giới, nhưng đặc sắc nhất vẫn là những bài bút kí viết về quê hương Quảng Trị, Quảng Nam và Huế - vùng đất ông đã sinh ra và lớn lên. Các tác phẩm kí của HPNT như: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999) đã có nhiều đóng góp trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại với một phong cách và diện mạo riêng khó hòa lẫn.

c. Một số nhận xét, đánh giá về tác giả:

●Có một người nghệ sĩ lang thang giữa hoa cỏ thiên nhiên rồi thiên nhiên bước vào những trang bút kí tài hoa của anh với bao nhiêu xáo động khôn cùng của ngổn ngang trần thế.

Thâm hậu như những châm ngôn mà vẫn lấp lánh một ánh sáng lạ khiến người đọc, sau mỗi dòng chữ kia, thấy biết ơn với căn nhà vũ trụ mà ta đang sống.

Con người đã rong ruổi giữa thiên nhiên vô biên ấy, trầm tư trên những ngọn thông đỉnh Bạch Mã hay bơi ra giữa dòng Bến Hải ôm lấy làn nước dòng sông để tiếp thêm sinh lực cho những ngày xuống đường chống Mĩ thời sinh viên tranh đấu năm nào…

Lãng du qua những phố phường trời Âu hay dầm chân dưới ruộng sình của quê nhà rơm rạ, yêu thắt lòng mỗi hạt bụi trần gian đến ánh sao xanh giữa thiên hà hun hút, vậy mà gần tám năm rồi phải ngồi trên xe lăn, khát khao được một lần hòa bước chân mình vào dòng đời xuôi ngược và bày tỏ niềm biết ơn với thiên nhiên bằng sự lễ độ của một con người qua những trang bút kí tài hoa.

Người ấy là Hoàng Phủ Ngọc Tường.

(Theo Tuổi trẻ)

●Kí của HPNT có rất nhiều ánh lửa. (Nguyễn Tuân)

●HPNT có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lí sâu rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được. (Hoàng Cát)

●HPNT là một trong số rất ít nhà văn viết bút kí nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút kí của HPNT hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình. Thực ra, bút kí của HPNT chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc, thơ HPNT là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. (Ngô Minh)

●Trong một số cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh – chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao động nghệ thuật – anh tự coi mình là người ham chơi. Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ. (Nguyên Ngọc)

(Sưu tầm từ Internet)

2. Về thể loại bút kí

Bút kí là thể loại kí ghi chép các sự kiện, nhưng thiên về bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả, qua đó biểu hiện cách nhìn, cách đánh giá cũng như quan niệm của nhà văn trước cuộc sống. Trong bút kí, yếu tố trữ tình luôn xuất hiện xen kẽ với ghi, tả sự việc, hiện tượng.

Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu của tác giả khám phá những khía cạnh có vấn đề, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường.

Trong bút kí văn học, nhà văn thường khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tô đậm những phát hiện, nhận thức riêng của mình, tác động đến độc giả. Bút kí có thể thiên về khái quát các hiện tượng có vấn đề của đời sống (chú ý nhiều đến việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật: xây dựng cốt truyện, sử dụng các yếu tố liên tưởng, trữ tình, để điển hình hóa những tính cách) hoặc thiên về chính luận (mô tả các hiện tượng đời sống một cách chính xác, sinh động, kèm theo những nhận xét riêng của mình hoặc của nhân vật, phân tích, đánh giá cuộc sống được mô tả, sử dụng yếu tố nghị luận, châm biếm, hài hước).

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài kí đặc sắc của HPNT viết về con sông Hương – con sông đặc trưng của xứ Huế, niềm tự hào kiêu hãnh của con người xứ Huế với vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, huyền ảo được nhà văn viết bằng nhịp điệu hết sức chậm rãi dường như có phần nghiêng hẳn về chất thơ thi vị, ngọt ngào của tùy bút. Nổi lên qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông chính là hình tượng nhân vật tôi của HPNT – một cái tôi hào hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế.

3. Giá trị về nội dung tác phẩm.

a. Vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn:

Bằng những hình ảnh đầy ấn tượng, sự liên tưởng độc đáo, cách so sánh và nhân hóa mạnh mẽ, tác giả đã phát hiện ra sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, một bản trường ca của rừng già khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn. Vẻ đẹp của Sông Hương ở thượng nguồn còn quyến rũ hơn, ấn tượng hơn bởi màu sắc rực rỡ đỏ chói của hoa đỗ quyên rừng. Tất cả đã tạo nên một sự cảm nhận về dòng sông Hương có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm.

b. Vẻ đẹp sông Hương ở đồng bằng:

Rừng già đã chế ngự sự mãnh liệt để khi bắt đầu ra khỏi rừng, con sông mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa đất đế đô. Với hình ảnh người tình mong đợi đến đánh thức người gái đẹp ngủ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dự báo cho người đọc một vẻ đẹp mới của dòng sông. Dòng sông Hương có vẻ đẹp biến ảo như phản quang chiếu nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố sớm xanh, trưa vàng, chiều tím; có vẻ đẹp trầm mặc khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ của các vua chúa triều Nguyễn; vẻ đẹp mang màu sắc cổ kính, triết lí khi đi trong những âm hưởng ngân nga của chùa Thiên Mụ, vẻ đẹp vui tươi khi đi qua biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng sự hiểu biết về địa lí, văn học, lịch sử để viết về dòng sông Hương khi những khúc quanh vượt qua bao địa danh mang màu sắc văn hóa Huế. Dòng sông mềm như dải lụa vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, qua những ngọn đồi. Vẻ đẹp phong phú, nhiều mặt của sông Hương được khám phá qua năng lực quan sát rất tinh tế của nhà văn.

c. Vẻ đẹp sông Hương khi vào thành phố Huế:

Vào thành phố, dòng sông Hương vui tươi, chậm rãi, mềm mại, êm dịu như tiếng vang rất nhẹ của tình yêu. Hình dạng sông như một cánh cung, chiếc cầu trên sông như một vầng trăng non. Điệu chảy lặng lờ của sông như điệu Slow tình cảm dành cho Huế. Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi dòng sông xa dần trong thành phố để đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau của thôn Vỹ Dạ. Những vẻ đẹp phong phú này được nhà văn diễn đạt bằng ngôn ngữ uyển chuyển đầy chất thơ và âm nhạc thể hiện niềm say mê, tự hào, gắn bó đối với dòng sông yêu thương.

Vẻ đẹp dòng sông Hương còn được gợi lên qua trí tưởng tượng sáng tạo đầy tài hoa của tác giả. Con sông được nhìn nhận như một cô gái Huế với những vẻ đẹp, những nét tính cách và tâm hồn riêng. Sông Hương có cái duyên riêng: lúc là một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại; lúc lại là một thiếu nữ đa tình và tài hoa như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya; dịu dàng và sâu sắc, kín đáo nhưng cũng rất lẳng lơ; khéo trang sức mà không lòe loẹt, giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo lục điều: Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông. Tất cả hiện lên sống động qua cách diễn đạt tinh tế của tác giả về cái tình tứ mà kín đáo, thiết tha mà rất độc đáo của cảnh xứ Huế và con người xứ Huế.

d. Tất cả những phát hiện về vẻ đẹp của sông Hương xét đến cùng cũng bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến đắm say của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với cảnh và người xứ Huế. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông là một bài thơ văn xuôi về người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, một người mẹ không thể chỉ hiểu được bằng cái nhìn bề ngoài hời hợt. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, bộc lộ mọi cung bậc của nó, vừa mãnh liệt lắng sâu, vừa trữ tình thiết tha, vừa bình thản trí tuệ. Tác giả tả tâm hồn xứ Huế trong tổng thể thiên nhiên và đô thị, từ thời Châu Hóa xa xưa đã nổi tiếng là trường thành phương Nam của đất nước. Tác giả tả sông Hương trong truyền thống văn hóa của Việt Nam. Thật thú vị khi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra màu sắc, dáng nét âm hưởng xứ Huế trên mỗi trang Kiều, gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế, hoặc đột ngột liên hệ Đặng Dung mài gươm dưới chân thành Châu Hóa. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, có một dòng sông thi ca về sông Hương, một dòng thơ không lặp lại mình, dòng sông trắng – lá cây xanh trong thơTản Đà, vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh trong thơ Cao Bá Quát, nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơTố Hữu. Sông Hương còn là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc – sử thi mà trữ tình, hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng, tươi mát – nét độc đáo rất Huế. Càng độc đáo hơn, khác biệt hơn khi tác giả nhắc đến sông Hương với tấm lòng gắn bó khi so sánh với các con sông trên thế giới.

Cảm nhận về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều sự phát hiện về lịch sử và văn hóa xứ Huế. Huế từ lâu đã chiêm chỗ sâu bền trong tâm hồn người Việt, là nỗi ước mong của trí thức bao đời. Ai đã đặt tên cho dòng sông là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch sử của một hiện tượng đời sống. Từ vẻ đẹp của một dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giúp người đọc hiểu hơn về lịch sử, văn hóa của Huế và vẻ đẹp tâm hồn của con người vùng đất cổ kính này. Ai đã đặt tên cho dòng sông bồi đắp cho người đọc tình yêu, niềm tự hào và sự gắn bó thiết tha với quê hương đất nước từ những gì rất quen thuộc, gần gũi, thân thương để rồi gửi gắm vào đấy tất cả những ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử.

4. Đặc sắc nghệ thuật:

a. Nét độc đáo của tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút kí mang tính sử thi nhưng được viết ra dưới ngòi bút mang đậm tâm hồn Huế và sử dụng nhiều thước đo khác nhau làm cho ngôn ngữ bút kí trở nên phong phú, hấp dẫn. Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hóa với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn. Cảm nhận vẻ đẹp của xứ Huế và con người xứ Huế không chỉ là cái đẹp và thơ trong ý vị lãng mạn mà phải hiểu được đúng tầm vóc lịch sử và văn hóa Huế. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm này không phải là tình yêu đối với dòng sông Hương mà chính là tình yêu đắm say với dòng sông đó được thể hiện  bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một phong cách hướng nội. Với tài năng của một cây bút giàu trí tuệ và văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm được điều đó.

Ai đã đặt tên cho dòng sông là sự ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp và thơ mộng, ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi nền văn hóa Huế và tâm hồn người Huế. Tác giả coi sông Hương là biểu tượng của tất cả những gì là vẻ đẹp độc đáo của văn hóa Huế.

b. Nhân vật trung tâm tạo nên sức hấp dẫn của bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông – bài kí mang phong cách của thể văn tùy bút giàu chất thơ, chính là cái tôi của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm, tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, đắm say trước cái đẹp của cảnh và người xứ Huế. Lối viết phóng túng, tài hoa, giàu chất thơ, nhiều liên tưởng, nhiều ví von, so sánh, cách sử dụng hình ảnh độc đáo đầy ấn tượng đã tạo nên nét đặc sắc nghệ thuật của bài kí và phong cách nghệ thuật của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường – người được mệnh danh là ông hoàng kí của nền văn học Việt Nam đương đại.

5. Cảm nhận về tác phẩm:

Ai đó đã từng viết: Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo. Vâng, một dòng sông để thương, để nhớ của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Nam Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh; nếu Hoài Vũ mãi mãi là con sông của Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng với sông Hương đi vào trái tim người đọc với Ai đã đặt tên cho dòng sông?...

Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một làng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông đã nấu nước của trăm hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi thơm tho.

Phải chăng đó là cách lí giải tên của Hương giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của HPNT?

Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết năm 1981, khi tác giả sống bên bờ sông Hương. Sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, không gian.

Khi tác giả ngồi đọc Truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn cổ xưa, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt – khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của mảnh đất Kinh – xưa đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng Kim – Kiều.

Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế. Sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của HPNT đã mang hình ảnh một cô gái mĩ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, bản lĩnh và gan dạ, có một tâm hồn tự do và trong sáng, đó là hình ảnh bản trường ca của rừng già rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.

Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua: Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… Người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng vẫn đi tỏng dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lí, như cổ thi… cho đến khi gặp được tiếng chuông chùa Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát của tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Cái phút ban đầu để đến với người tình của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.

Sông Hương – dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng núi để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi. Nàng như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pet… chảy trong lòng thành phố yêu dấu của mình, nhưng khác ở chỗ, nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội Rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng. Tôi chợt nhớ đến câu nói: Có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ. Dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế, khắp lưu vực sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm, dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế. Đã có một thời sông Hương mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đang chiến đấu oanh liệt bảo vệ phía Nam của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, dòng sông của thời gian ngân vang, của lịch sử viết giữa màu xanh, lá biếc…

Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hi sinh…

Cho nên, từ khi có sông Hương, Huế - chàng Kim của nàng – cũng có nhiều thay đổi.Từ hoang sơ với cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con gái Huế dù đến Pa-ri, Bu-đa-pet hay Lê-nin-grat vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên vẹn đô thị cổ trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của dân ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Huế chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ. Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.

Tình yêu của sông Hương và Huế - một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng kì diệu giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của HPNT, người con thân yêu của Huế. Yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê-va để sông Hương tìm về trong niềm nhớ.

Sông Hương của HPNT không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người. Những tài tử đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những Bà Huyện Thanh Quan, những Tố Hữu… đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.

Cũng như tình yêu của sông Hương, nhìn ngắm sông Hương với Huế, tình yêu của HPNT với sông Hương cũng là quá trình khám phá, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm dòng nước: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời đáp, câu hỏi đã thành tên cho một bài bút kí tuyệt vời.

(Lê Uyển Văn Thể thao Văn hóa)

Khách