Văn bản ngữ văn 8

NH

viết một đoạn văn phân tích cái "ngông" của Tản Đà trong bài "muốn làm thằng cuội"(đoạn văn thôi nha!!!)

DT
29 tháng 12 2017 lúc 21:29

Đầu thế kỉ XX, trên thi đàn xuất hiện một gương mặt mới lạ. Ấy là Tản Đà. Sự xuất hiện của Tản Đà đã gây xôn xao trong dư luận đương thời. Không ít ánh mắt tò mò, hiếu kì! Những lời khen, chê, đủ cả! Người ta tò mò, hiếu kì vì cái thói phóng túng, tài tử của ông thì ít, mà tò mò hiếu kì về thơ ông thì nhiều. Lần đầu tiên trong văn chương Việt Nam, xuất hiện một hồn thơ như thế; vừa sầu mộng, vừa đa tình và rất ngông.

Tản Đà vốn xuất thân Nho học, và có lẽ thuộc lớp Nho học cuối cùng của Việt Nam. Sống ở cái thời mà nền Nho học sắp tàn, Tản Đà đã sớm chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ và nhanh chóng trở nên nổi tiếng, đặc biệt vào những năm 20 của thế kỷ XX. Với những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ, Tản Đà đã thổi một luồng gió mới vào thơ ca đương thời.

Thơ ca truyền thống xưa nay thường đề cao cái ta, một cái ta khuôn mẫu của đạo đức, lí tưởng và trách nhiệm công dân. Đến Tản Đà, một cái tôi đầy bản ngã và cá tính đã ra đời. Tuy nhiên, hiện thực xã hội ngột ngạt, tù túng đã bóp chết những khát vọng của con người, nhất là người nghệ sĩ. Trong suốt cuộc đời mình, Tản Đà đã sống trong tâm trạng bết đắc chí tài cao, phận thấp, chí khí uất. Tâm trạng u uất ấy khiến thơ Tản Đà tràn ngập một nỗi sầu da diết khôn nguôi:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.

Nỗi sầu của Tản Đà không chỉ là do bất mãn cá nhân, buồn về thân phận: Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo – Mà đến bây giờ có thế thôi, mà còn là nỗi buồn đau về nhân sinh, thời thế, về đất nước: Gió gió mưa mưa đã chéo phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo. Suy nghĩ cho cùng, đó là nỗi buồn đau đẹp, rất đáng được trân trọng!

Bất hoà sâu sắc với cuộc đời, với xã hội, Tản Đà muốn thoát ra khỏi cuộc đời.

Không chỉ có Tản Đà ôm ấp khát vọng thoát li. Phàm những ai sống ở thời đó mà có tâm hồn thanh cao và cá tính mạnh mẽ như Tản Đà đều muốn thoát li khỏi cuộc đời. Tuy nhiên, không ít người đã rơi vào bế tắc vì muốn thoát li mà không thoát li nổi (Xuân Diệu). Nhưng Tản Đà lại khác. Với tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn, Tản Đà tìm cách thoát li bằng mộng tưởng. Đặc biệt, giấc mộng thoát li của Tản Đà rất ngông; thoát li lên cung trăng làm bầu bạn với chị Hằng:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi,
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui.

Tản Đà vốn là một hồn thơ ngông, chính Tản Đà cũng tự nhận mình là một vị tiên trên trời, bị đày xuống hạ giới vì tội ngông, đã từng viết bài thơ Dạm bán áo đoạn để mà mua giấy viết ngông. Vì thế, cái khát vọng thoát li rất ngông của Tản Đà trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội cũng là lẽ thường tình của thi sĩ.

Khát vọng thoát li lên cung trăng của Tản Đà đã là rất ngông rồi, nhưng ngông hơn nữa là cách xưng hô thân mật, có phần suồng sã chị chị em em của Tản Đà đối với chị Hằng; rồi khi đã lên đến cõi tiên, lại dám nhận mình là tri âm, tri kỉ của người đẹp, xem người đẹp như bạn tâm tình để giãi bày mọi tâm sự: có bầu có bạn can chi tủi, thoả được thói phóng túng cùng gió cùng mây thế mới vui.

Một giấc mộng vừa ngông, vừa lãng mạn và cũng rất đa tình. Nó là sản phẩm tất yếu của một tâm hồn luôn cảm thấy buồn vì trống vắng, cô đơn như Tản Đà. Trong cuộc đời mình, đã không ít lần thi sĩ khắc khoải đi tìm những tâm hồn tri kỉ:

Chung quanh những đá cùng cây
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm

Ao ước được thả hồn mình cùng mây gió:

Kiếp sau xin chớ làm người
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay

Thoát li khỏi cuộc đời để làm thằng Cuội, nỗi sầu u uất trong lòng ông dường như đã được giải toả.

Mạch cảm xúc lãng mạn và ngông đẩy lên đến cao độ ở hai câu kết của bài thơ:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Trong con mắt nhìn đời rất ngông của Tản Đà, cõi trần bụi bặm chỉ còn là bé tí chẳng đáng phải bận tâm. Một nụ cười hóm hỉnh mà thật có duyên, rất Tản Đà.

Có thể nói bài thơ Muốn làm thằng Cuội là một sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn, vừa sầu mộng vừa đa tình và rất ngông của Tản Đà. Hồn thơ ấy đã khắc một dấu ấn sâu đậm trong thơ ca đương thời và mãi đến tận mai sau.

Bình luận (0)
ND
29 tháng 12 2017 lúc 21:44

Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ... thật là thành thực!

Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú - cũng là một kiểu nói ngông.

Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ - Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo - Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"... Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.

Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ

Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.

Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị - em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.

Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.


Bình luận (1)
PP
10 tháng 1 2022 lúc 20:26

Ngay tại nhan đề đã phần nào bộc lộ rõ cát chất''ngông'' của Tản Đà thi sĩ.Cội từ lâu đã là nhân vật điển hình cho sự dối trá.Mà nhà thơ còn muốn được làm thằng Cuội.Thật là một cái ''ngông'' rất Tản Đà. Ngông trong cả bài thơ,Hằng Nga xinh tươi,kiều diễm là vậy nhưng Tản Đà thản nhiên xưng ho chị-em rất tự nhiên,suồng sã. Có ai dám nói lên cái tôi của cá nhân,dám ngông nghênh bay bổng tự do treeb Thượng giới như nhà thơ? Dường như đỉnh điểm của chất''ngông'' ấy đã kết tụ lại ở hai câu thơ cuối. Tản Đà không muốn làm khách mà muốn làm chủ cả cung trăng,cùng người đẹp quay xuống giễu cợt trần thế xấu xa,bẩn thỉu kia.

NẾU ĐÚNG NHỚ TICK CHO MK NHA!!!

Bình luận (0)
PP
10 tháng 1 2022 lúc 20:27

GỢI Ý THÔI NHA!!!

-Các thi nhân VN cũng tưởng tượng trên cung trăng có chị Hằng nhưng thường viết với cách nhìn trang trọng hơn.Riêng Tản Đà, ông thản nhiên xưng hô với chị chị em em với Hằng Nga ngay từ câu thơ đầu tiên,rất tự nhiên thân mật,gần gũi như đã quen nhau từ lâu.Tản Đà coi Hằng Nga là người để dốc bầu tâm sự,than thở nỗi u buồn bực dọc trần thế chứ không vào đề bằng cảm hứng tao nhã như người xưa.

Bình luận (0)
NL
29 tháng 12 2017 lúc 21:03

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ - Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo - Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"... Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.

Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ

Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.

Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị - em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.



Bình luận (1)
NV
29 tháng 12 2017 lúc 21:33

Gợi ý viết bài :

- Cái "ngông" của Tản Đà trong bài "Muốn làm thàng Cuội" :

+ ƯớC muốn Làm thằng cuội : chị Hằng sẽ ghì cành đa xuống và Tản Đà bám vào đó để lên cùng chị Hàng cùng bầu bạn với chị để đỡ lẻ loi

+ Cách xưng hô : em - chị => thân mật, suồng sã

+ Giọng điệu : ngông, hóm hỉnh

Bình luận (0)
HT
10 tháng 1 2022 lúc 15:10

20 bạn

 

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
DT
Xem chi tiết
CT
Xem chi tiết
TU
Xem chi tiết
NH
Xem chi tiết
TH
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
DD
Xem chi tiết
BT
Xem chi tiết
HL
Xem chi tiết