Mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa khổng lồ đang lặn xuống phía trời Tây. Màn đêm dần buông, mặt biển tối sẫm, chất chứa vẻ bí ẩn ngàn đời.
Những ngư dân đã chuẩn bị kĩ càng cho đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Tiếng hát, tiếng hò quen thuộc cất lên cùng cánh buồm căng phồng ngọn gió mát lành, ca ngợi biển cả hào phóng đã ban cho con người bao nhiêu là cá. Những luồng cá bạc, cá thu, giống như hàng triệu con thoi vun vút lao nhanh, dệt nên muôn luồng sáng. Cá ơi, hãy đến dệt lưới ta cho lưới nặng, khoang đầy; cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc!
Bài ca gọi cá quen thuộc được điểm nhịp bằng tiếng gõ mạn thuyền giòn giã, rộn ràng, vang xa trên mặt đại dương mênh mông lấp lánh ánh trăng. Cảm ơn biển cả đã nuôi dưỡng con người tự ngàn đời nay!
Đêm đã qua, bầu trời đang rạng. Từng đoàn ngư dân hối hả kéo những chùm lưới nặng đầy những cá, vảy bạc, đuôi vàng loé rạng đông đổ vào khoang thuyền. Những tấm lưới được xếp gọn trên mui. Mặt trời lên, ánh bình minh rực rỡ dát vàng trên mặt biển mênh mông.
Lòng người vui phơi phới trước một chuyến ra khơi thắng lợi. Ngư dân lại cất cao tiếng hát. Những cánh buồm no gió phồng căng, đẩy đoàn thuyền chạy phăng phăng như chạy đua cùng mặt trời. Cảnh mặt trời mọc trên biển thật huy hoàng, lộng lẫy. Mỗi mắt cá trong veo cũng là một mặt trời nhỏ xíu, lóng lánh nắng mai.
Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca... Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ dại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Cậu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.
Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.
Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.
Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông - nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc - một Huy Cận trữ tình cách mạng.
Chúc bạn học tốt !
Để kịp cho chuyến ra khơi tối nay được thuận lợi, chúng tôi đã tấp cập chuẩn bị từ sớm. Bác Ba lo vá lại tấm lưới bị rách, còn anh Sáu đưa nước và mấy cái thùng phi lên thuyền. Tôi cũng lo kết lại mấy cái dây thừng cho thật chặt. Mùa này sóng lớn, ra biển mà nhỡ nó bị đứt thì không biết làm thế nào. Bên kia, thuyền viên của các thuyền khác cũng nhộn nhịp chuẩn bị không kém gì. Đến chiều thì mọi thứ đã sẵn sàng.
Thân bài:Trưởng đoàn đứng trên con thuyền lớn nhất đang dẫn đầu, lặng lẽ nhìn khơi xa. Đôi mắt đăm đăm nhìn về không cùng. Chắc ông đang hướng tìm ngọn gió, xem khí trời thế nào. Lão ngư già dặn ấy đã có trên 50 năm tuổi nghề, mọi biến chuyển của đại dương ông đều cảm nhận được hết. Trên biển, mặt trời từ từ chìm xuống biển, ánh sáng vàng rực hắt thẳng lên trời cao.
Tôi cứ ngỡ như đó là một hòn lửa khổng lồ bị dìm vào biển nước, sức mạnh vô biên của nó có thể tạo nên những đợt sóng kinh hồn. Đêm cũng từ từ buông xuống. Cái khoảnh khắc giao điểm giữa đêm và ngày thật kì diệu. Nó cứ khiến lòng ta nôn nao khó tả. Trời mới còn đang sáng đáy thôi, bỗng chốc tối sầm lại, vệt sáng tối kéo dài trên mặt biển rồi mất hút tận khơi xa.
Dưới kia, các thuyền viên đã lên thuyền cả rồi, cột buồm rùng rùng chuyển động, cánh buồm căng lên đồng loạt. Bỗng lão ngư hét lớn: “Gió đã thổi, ta khơi thôi!”. Hàng mấy chục thuyền viên đồng loạt “dạ” ran, tiếng vang kinh bạt cả biển trời. Đoàn thuyền thuyền đánh cá rùng mình chuyển động rồi xếp hàng ra khơi. Thuyền này nối đuôi thuyền kia tạo thành một vệt dài trên biển.
Tiếng hát ra khơi lại rộn vang khắp các thuyền. Dân chài lưới đầu sóng ngọn gió nhưng yêu đời lắm. Lần ra khơi nào chúng tôi cũng ca hát. Hát từ bờ hát đến khơi xa. Tôi nhớ rất rõ bài hát ấy chính do lão ngư già hát và chúng tôi hát theo. Hát mãi trong mỗi chuyến ra khơi đến giờ thuộc nằm lòng luôn:
“Ơi biển sâu! Ơi biển sâu
Nơi nào nước chảy, nơi nào cá bơi
Thuyền ta đi tới! Thuyền ta đi tới!
Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Sóng đã bạc đầu, chim trời mỏi cánh
Bao nhiêu năm cuộc đời hiu quạnh
Nay ra khơi ta bắt cá về.
Ơi hỡi đại dương muôn trùng sóng vỗ!
Ơi hỡi Biển Đông muôn luồng cá chạy!
Ta soi, ta rọi, ta vớt, ta giăng
Đây đoàn cá bạc biển Đông lặng,
Đây luồng cá thu như đoàn thoi
Đây ánh lưng vây con nục trắng…
“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Bấy nhiêu gian khổ ở trên đời
Cuộc đời đã mới, đời đã mới
Hãy tiến lên nào anh em ơi!”
Lời hát cứ dặt dìu theo nhịp sóng biển. Tiếng hát khơi bừng khí thế ra trận. Ai cũng tràn đầy tin tưởng ở trong lòng. Cánh buồm no gió đẩy thuyền lướt mạnh ra khơi.
Thoáng chốc, bãi bờ, làng xóm đã mấy hút, không còn nhìn thấy nữa. Lúc này, trăng cũng đã lên cao. mà thú thật, giữa biển khơi bao la, trăng có lên hay xuống chúng tôi cũng không biết nữa. Không lấy gì để so sánh mà biết nó lên hay lặn. Đoàn thuyền vẫn giữ hàng ngũ, trật tự băng băng lao tới. Nhìn cảnh ấy cứ ngỡ như rằng nó đăng lướt đi giữa mây cao với biển bằng. Nhiều lúc tôi nghĩ cả đoàn thuyền đang bay chứ không phải đang bơi vì biển và trời gần nhau quá.
Đến 10 giờ đêm là chúng tôi buông lưới. Lão ngư già đã cảm nhận có luồng cá chạy gần đây. Linh tính ông mách bảo thế. Ông lại ra đứng trên mũi thuyền, mắt nhìn vào con nước, đôi tai khẽ rung rung như đang nghe ngóng cái gì đó. Các bạn sẽ không thể tin được rằng chỉ cẩn ngửi mùi nước biển thôi là ông ấy có thể biết đàn cá đang ở đâu, nhiều hay ít, chìm sâu hay nổi cạn. Ông lấy chèo gõ nhẹ vào mạn thuyền rồi lại lắng nghe. Đôi tai kì diệu của ông dường như có thể nghe được đàn cá đang chạy rộn ràng trong lòng biển sâu sau mỗi tiến gõ. Sau ông lệnh: “Rẽ thuyền, thả lưới”.
Các thuyền viên bắt đầu chuyển hướng, phân làm hai đội. Một đội dùng lưới giăng hình cánh cung đi trước đón cá. Một đội giang lưới hàng chữ nhất thả lưới chìm đi sau. Xong đâu tất cả, lão ngư già lệnh cho đoàn thuyền đi tới. Mặt biển dội sóng dữ dội do lưới cào vào lòng bể. Chính giữa, luồn nước chảy xiết mạnh như thác lũ. lão ngư già vẫn đứng trên mũi tàu, vững chải như một cây đinh ba. Bỗng lão phất tay nói lớn: “Cá đã vào, khép lưới lại”.
Các thuyền viên nhanh chóng bẻ lái rẽ thuyền. Những thuyền viên khác lập tức gồng tay kéo dây chão khép lưới lại. Mặt biển lại sôi sục dữ dội. Khi lưới vừa khép, đoàn cá từ dưới sâu dội lên, đội cả lưới định tìm đường tháo chạy. Anh Sáu vội cầm dây chão móc vào cần cẩu, rút miệng lưới lên cao tóm gọn lại. Đàn cá hết đường chạy thoát. Phái sau, đoàn thuyền cào vớt cũng thu được đầy lưới cá.
Lão ngư già quả thật tinh tế. Ông hiểu tính cá rất sâu sắc. Đoàn đi trước vây hình cánh cung dụ cá vào luồng giữa. Khi đụng phải lưới, thế nào một phần cá cũng lặn xuống sau hơn tìm đường chạy trốn. Thế nên, ông bố trí đội thuyền giăng hàng chữ nhất đi sâu và thả lưới chìm để đón đầu đoàn cá ấy. Quả thật, đoàn cá bị tóm gọn chẳng sót con nào.
Bắt gọn đoàn cá, chúng tôi lại giong thuyền đi. bài hát rộn rã lại vang lên. Tôi nhìn lão ngu già mà thầm kính phục. Đúng thật, gừng càng già càng cay. Đời ông đã có hàng nghìn chuyến đi biển, gian nan nào cũng đã trải qua. Nhớ có lần, trong trận bào cách đây bảy năm, thuyền của ông không kịp về bến để tránh bão. Cơn bão đến thật nhanh, phá nát cả xóm làng.
Trong mịt mù sóng gió, tưởng ông và các thuyền viên đã bỏ mình trong bụng ca. Nào ngờ, khi cơn bão tan, người ta thấy con thuyền lừ lừ từ khơi xa trở về. Không ai tin được đó lại là sự thật. Có người còn nghĩ đó là bóng ma, là ảo ảnh thôi. Đến khi thuyền cập bến, mọi người mới tin.
Chuyến đó, cũng may nhờ tài năng lão luyện của lão ngư già mà cả đoàn viên đã thoát nạn. Họ mang ơn ông đến suốt cuộc đời. Từ mẻ lưới đầu tiên đến quá nửa đêm, chúng tối kéo ba mẻ lưới nữa, thu được rất nhiều cá tôm. Đến khi thuyền đã đầy cá, lão ngư già lệnh dừng lại và cho thuyền quay trở về.
Đoàn thuyền lại rùng rùng tập kết, xếp thành ba hàng rồi hướng bờ thẳng tiến. Bài hát lại vang lên. Tiếng hát bội thu vang khắp biển trời, lúc khoan thai dìu dặt theo sóng biển, lúc vút cao khí thế cùng gió cùng mây:
“…Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Sóng đã bạc đầu, chim trời mỏi cánh
Bao nhiêu năm cuộc đời hiu quạnh
Nay ra khơi ta bắt cá về.
Ơi hỡi đại dương muôn trùng sóng vỗ!
Ơi hỡi Biển Đông muôn luồng cá chạy!
Ta soi, ta rọi, ta vớt, ta giăng
Đây đoàn cá bạc biển Đông lặng,
Đây luồng cá thu như đoàn thoi
Đây ánh lưng vây con nục trắng…”
Biển với chúng tôi như người mẹ vĩ đại. Biển mẹ che chở chúng tôi, nuôi lớn chúng tôi từng ngày. Có lúc biển mẹ bao dung, hiền hòa, trìu mến. Có lúc biển mẹ giận dữ như muốn trừng phạt những đứa con ngỗ nghịch không biết nghe lời. Cuộc sống dân chài sớm bờ tối biển chẳng ngày nào yên. Nhưng chúng tôi mạnh mẽ, chúng tôi tự hào về công việc của mình. Mỗi chuyến ra khơi bồi đắp trong tôi một tình yêu lớn đối với biển cả.
Thuyền gần tới bờ thì trời cũng hững sáng. Lúc đàu ánh sáng mờ mờ nhưng đã có thể nhìn rõ. Đi một lúc, ánh sáng đã thực rõ. Trên biển là thế nhưng giờ này trên đất liền vẫn còn tối lắm. Chắc các chị em đã sẵn sàng thúng rổ chờ thuyền về rồi.
Kết bài:Mặt trời đội biển nhô lên kì vĩ. Đó là khung cảnh ấn tượng nhất mỗi ngày mà chúng tôi vẫn thường thấy. Một chiếc mâm bạc không lồ từ từ dưới biển sâu nhô lên rực sáng chói gắt. Ánh sáng kéo một vệt dài trên biển rồi tỏa ra giống hệt như ánh đèn màu mà tôi vẫn thường thấy trong những đêm văn nghệ. Tiếng hát vui mừng cùng gió thổi căng cánh buồn. Có lẽ con thuyền cũng háo hức trở về nên băng băng vượt sóng.
Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca... Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ dại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Cậu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.
Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!
Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.
Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.
Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.
Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.
Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.
Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.
Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông - nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc - một Huy Cận trữ tình cách mạng.