Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 1
Số lượng câu trả lời 10
Điểm GP 0
Điểm SP 8

Người theo dõi (2)

AN
BN

Đang theo dõi (1)

BN

Câu trả lời:

* Tác động tích cực

- Cuộc cách mạng khoa học- kĩ thuật có tác động vô cùng to lớn làm đổi thay cuộc sống của con người. Thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về sản xuất và năng xuất lao động, đưa loài người bước vào một nến văn minh mới, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người.

+ Công cụ sản xuất được cải tiến, máy móc ngày càng phục vụ sản xuất tốt hơn, năng suất lao động ngày càng tăng lên.

+ Sản xuất thuốc trừ sâu bệnh, phân bón có chất lượng tốt nhiều giống cây trồng mới cho năng suất cao.

+ Phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hiện đại được sử dụng phổ biến. 

- Đưa tới những đổi thay lớn lao về cơ cấu dân cư với xu hướng trong ngành công- nông nghiệp giảm dần, cơ cấu dân cư trong ngành dịch vụ tăng.

- Đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới sau văn minh nông nghiệp, công nghiệp, đó là “văn minh trí tuệ”. Làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học- kĩ thuật  ngày càng được quốc tế hóa cao.

Tác động tiêu cực

- Cuộc cách mạng này đem lại những hậu quả tiêu cực do chính con người tạo ra: Đã tạo ra những loại vũ khí hủy diệt, các phương tiện quân sự hủy diệt sự sống.

- Môi trường, nguồn nước, đất bị ô nhiễm nghiêm trọng.

- Sinh ra nhiều dịch bệnh, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tai nạn lao động.

Như nhà khoa học A.Nô-ben nói: “Tôi hi vọng nhân loại sẽ rút ra được từ những phát minh khoa học nhiều điều tốt hơn là điều xấu”, mong muốn của nhà khoa học Nô-ben là con người cần biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật để phục vụ cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp, đừng để các tác động tiêu cực từ những phát minh khoa học làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người cũng như đừng sử dụng nó cho những cuộc chiến tranh gây tổn thất đau thương cho nhân loại. 

Giải pháp: 

- Nhận thức đúng về vai trò, vị trí của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đối với cuộc sống nói chung và công cuộc CNH – HĐH đất nước hiên nay.  Ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện để chiếm lĩnh những tri thức của nhân loại. Nâng cao khả năng vận dụng kiến thức đã học, áp dụng vào cuộc sống, học đi đôi với hành.

- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội phù hợp với lứa tuổi như: chung tay bảo vệ môi trường, không vứt rác bừa bãi. Cùng nhau xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp ở mọi nơi mọi lúc.

- Các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất cần đảm bảo các tiêu chuẩn về nước thải, khí thải trước khi xả ra môi trường.

- Bảo vệ những động vật quý hiếm để bảo tồn và phát triển cho phù hợp quy luật sinh tồn của tự nhiên.

- Trồng trọt sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học theo đúng quy định

- Con người cần có ý thức sử dụng các phát minh khoa học, các thành tựu kĩ thuật vào những mục đích tốt đẹp, nhân đạo.

- Tích cực tuyên truyền mọi người sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên, thân thiện với môi trường, ý thức chấp hành luật giao thông cho nhân dân địa phương.

Câu trả lời:

Khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra những chuyển biến lớn về kinh tế, chính trị, xã hội

Tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối với kinh tế, xã hội Việt Nam :

Về kinh tế :

– Tích cực : Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân ; thành thị theo hướng hiện đại ra đời ; bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.

– Tiêu cực : Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác thuộc địa là vơ vét sức người sức của nhân dân Đông Dương. Do vậy :

+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt;

+ Nông nghiệp dậm chân tại chỗ

+ công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

—> Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ. lạc hậu và phụ thuộc.

Về xã hội : Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới :

– Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, làm chỗ dựa, tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

– Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền.

– Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn… bị kìm hãm, chèn ép. Vì thế lực kinh tế nhỏ bé, lệ thuộc nên họ không dám mạnh dạn đấu tranh, chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn sinh sống.

– Tiểu tư sản thành thị, bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

– Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.

Câu trả lời:

Tham khảo:

Đọan trích “Kiều ở lầu ngưng bích” nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Trước đó, khi biết mình bị mắc mưu Tú Bà, Kiều đã tự sát. Tú Bà muốn dỗ dành Kiều nên đã đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích, hứa hẹn sẽ tìm người xứng đáng để gả chồng cho nàng. Thực chất, Tú Bà muốn buộc nàng phải trở thành kĩ nữ ở lầu xanh. Sáu câu thơ đầu, Nguyễn Du khắc họa hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều:

"Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình, nủa cảnh, như chia tấm lòng"

Hai chữ “khóa xuân” đã cho thấy tình cảnh đáng thương, khốn khổ của nàng. Rơi vào tay Tú Bà, tuổi xuân của Kiều bị giam lỏng ở nơi đây, tương lai vô định không biết hướng về đâu. Trong khi đó, quá khứ cũng chứa đầy sự tủi nhục, đau đớn. Hiện tại thì bơ vơ, cô quạnh. Nguyễn Du đã để Kiều tự bộc lộ tiếng lòng của mình. Kiều đứng trên lầu mà ngóng trông ra xa dường như để tìm kiếm niềm an ủi nhưng chỉ thấy một không gian quạnh quẽ. Cặp từ đối lập “xa” - “gần” diễn tả sự mênh mông, rợn ngợp của cảnh vật. Chỉ có bóng dáng núi phía xa và ánh trăng trên cao lẻ loi. Câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông” đã cho thấy sự rộng lớn, thoáng đãng nhưng vắng vẻ của khung cảnh. Dường như không có chút âm thanh, hình ảnh nào gợi lên sự sống. Trải mắt khắp bốn bề chỉ thấy thiên nhiên hoang vu, bát ngát. Cồn cát, bụi hồng, tất cả đều gợi sự cô đơn, trống trải đến tột cùng. Không có ai tâm sự, bầu bạn, Kiều sống trong trạng thái buồn bã, đau đớn, một mình đối diện với chính mình. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi vòng thời gian tuần hoàn, khép kín. Cả không gian và thời gian như cùng nhau kìm kẹp con người, bủa vây lấy Kiều, nhấn chìm nàng trong sự cay đắng, tủi hờn, bẽ bàng, cô độc. Người xưa thường tìm đến thiên nhiên để bầu bạn, gửi gắm nỗi lòng. Ấy thế mà Kiều ngắm nhìn cảnh vật lại thấy cõi lòng như bị xé làm đôi, càng thêm tan tác: “Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng”.

Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Trong đó, Kiều nhớ Kim Trọng trước:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bờ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nỗi nhớ đầu, Kiều dành cho Kim Trọng. Nàng nhớ người thương da diết, mãnh liệt. Nguyễn Du đã rất tinh tế khi phát hiện ra quy luật tâm lí này. Đối với cha mẹ, việc nàng bán mình chuộc cha đã phần nào thể hiện chữ “Hiếu”. Nhưng với chàng Kim, Kiều lại cảm thấy mình là kẻ phản bội, chưa làm trọn chữ “Tình”. Tình yêu là điều vô cùng thiêng liêng, quý giá. Kim Trọng và Kiều đã cùng uống rượu dưới trăng, thề nguyền mãi thủy chung son sắt. Giờ đây, Kiều đang trong tình cảnh lưu lạc, bị Mã Giám Sinh làm nhục. Nàng thấy cắn rứt, hổ thẹn như một kẻ phụ tình. Kiều tưởng tượng ra cảnh ở nơi xa, Kim Trọng đang tìm kiếm, ngóng trông tin tức của mình trong vô vọng. “Tấm son” có thể là tấm lòng thủy chung, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi, cũng có thể là lời tâm can Kiều giằng xé: tấm thân trong sáng đã bị ô nhục, biết bao giờ mới gột rửa được? Càng nhớ Kim Trọng, Kiều càng thấm thía tình cảnh trống trải, bơ vơ của mình, nuối tiếc những kỉ niệm đẹp và ý thức sâu sắc về nỗi đau đã trải qua. Qua nỗi đau, ta thấy được tấm lòng son sắt, sự vị tha hết mực của Kiều.

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Tiếp đến, Kiều xót xa, nhớ thương cha mẹ. Nàng xót xa nghĩ đến cảnh cha mẹ vẫn ngóng trông nàng bên bục cửa hằng ngày. Nàng khổ tâm, day dứt, xót thương cha mẹ đã già mà không có ai sớm tối chăm sóc. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đều nói về sự hiếu thuận của con cái dành cho bậc sinh thành đã chứng minh lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” diễn tả sự xa xôi cách trở, cho thấy tâm trạng âu lo của Kiều khi nghĩ tới cha mẹ. Nàng tự trách bản thân không thể báo đáp ơn sinh thành, dưỡng dục. Qua nỗi nhớ người yêu và cha mẹ được bộc lộ bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, ta thấm thía hoàn cảnh bất hạnh, đáng thương và tấm lòng nặng tình nặng nghĩa, thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Tám câu thơ cuối là tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật. Đây là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình. Mỗi cảnh vật lại khơi gởi ở người con gái đa sầu đa cảm những xúc cảm khác nhau:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Hai câu đầu như vẽ nên bức tranh chiều hôm nhớ nhà. Từ xưa đến nay, buổi chiều xuất hiện trong văn học trung đại luôn gợi nỗi buồn nhớ. Hiện lên trên ráng chiều cùng không gian mênh mông của cửa biển là cánh buồm xa xăm như ảo ảnh. Khung cảnh cho thấy thân phận tha hương, nỗi nhớ nhung quê nhà da diết, khao khát được gặp người thân khôn cùng. Đại từ phiếm chỉ “ai” mang một âm điệu bi ai, sầu thảm, câu hỏi ngân dài rồi lại chìm vào bốn bề bát ngát. Hai câu thơ tiếp cho thấy Kiều đã đưa mắt hướng về không gian gần hơn. Cánh hoa trôi man mác trong dòng nước kia sao mà giống thân phận Kiều đến vậy? Kiếp hồng nhan tựa như cánh hoa tàn, mỏng manh, yếu ớt và vô định. Kiều tự xót thương cho chính thân mình. Hai câu: “Buồn trông nội cỏ dầu dầu/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” lại càng buồn bã hơn. Cũng là sắc xanh của cỏ nhưng không phải màu xanh tươi nõn nà, mơn mởn như “Thanh minh trong tiết tháng Ba” mà là màu xanh nhàn nhạt, héo úa. Màu xanh ấy trải xa tít tắp như cuộc sống buồn đau không biết khi nào mới kết thúc. Hai câu thơ cuối gợi thời gian đã xế chiều, màu sắc cảnh vật dường như tối hơn, cảnh cũng trở nên mịt mờ, âm thanh dữ dội hơn. Tiếng sóng nổi lên “ầm ầm” do gió cuốn như đang vây quanh ghế Kiều ngồi. Âm thanh đó là dấu hiệu báo trước những biến cố đoạn trường tiếp theo hay chính là tiếng kêu đau đớn xé ruột xé gan của Kiều đang lẫn vào thiên nhiên?

Thiên nhiên trong đoạn trích được nhìn theo quy luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”… “Buồn trông” nghĩa là buồn mà hướng mắt ra xa, trông ngóng, hi vọng nhưng lại tuyệt vọng. Bức tranh phong cảnh đã trở thành tâm cảnh. Cảnh được cảm nhận từ xa tới gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả sự biến động trong tâm khảm Kiều. Kiều đi từ buồn bã, nhớ thương đến âu lo, bế tắc, chao đảo, sợ hãi. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên cùng hệ thống từ láy diễn tả nỗi buồn theo cấp độ tăng tiến như lớp lớp sóng trào. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là mẫu mực cho bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn trích cho thấy tình cảnh đáng thương và vẻ đẹp tâm hồn, thế giợi nội tâm sâu sắc của Kiều cùng tinh thần nhân đạo cao cả của Nguyễn Du

Câu trả lời:

Tham khảo:

Chiến tranh đã qua lâu nhưng những mất mát, những nỗi đau mà chiến tranh mang lại vẫn như đang hiện hữu. Rất nhiều tác phẩm đau thương về chiến tranh đã được các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Cũng viết về một thời đạn bom khốc liệt nhưng Nguyễn Quang Sáng đã “vượt qua bi kịch của chiến tranh” để “cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”, viết nên truyện ngắn nổi tiếng “Chiếc lược ngà”. Truyện đã tái hiện được nỗi mất mát của chiến tranh, nhưng vượt lên trên nỗi đau ấy là tình cha sâu nặng, rực sáng dù đứng giữa hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ngay khi đứa con gái của ông còn nhỏ. Suốt 8 năm trời ròng rã, ông lúc nào cũng nhớ thương, mong ngóng đến ngày được về gặp con. Cuối cùng sau bao tháng ngày trông đợi, ông cũng có dịp về thăm nhà, “cái tình người cha cứ nôn nao” trong ông. Ngay khi thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã vội vàng nhảy lên bờ, bước những bước dài đến bên con. Ông gọi to tên con, khom người xuống rồi dang rộng vòng tay với niềm mong chờ sẽ được con chạy nhanh đến ôm chầm lấy ông, sà vào lòng ông kêu một tiếng “ba”. Phải trông mong, nhớ thương con đến nhường nào mới khiến một người lính dày dạn nơi chiến trường trở nên vội vàng, luống cuống như thế. Ông không kịp chờ thuyền dừng hẳn mà đã vội vàng nhảy lên bờ để đến bên con. Thế nhưng đáp lại những mong chờ suốt hàng năm trời của người cha, bé Thu lại sợ hãi, ngơ ngác như nhìn người lạ. Ông Sáu đã không kìm được nỗi xúc động, vết thẹo bên má giần giật, “giọng lặp bặp run run”. Ông lặp lại hai tiếng “ba đây con” “ba đây con” để mong con gái nhận ra mình nhưng con ông lại sợ hãi chạy đi. Không điều gì đau xót hơn thế! Nỗi niềm khát khao, mong nhớ của người cha như bị tạt một gáo nước lạnh. Nỗi đau của chiến tranh, của vết thẹo dài trên mặt cũng không là gì khi đứng trước sự hụt hẫng, đau khổ của một người cha không được con nhận ra.

Suốt mấy ngày ở nhà, ông Sáu chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng ở bên con, hằng mong ba con sẽ thân thiết hơn, mong con gọi một tiếng “ba”. Thế nhưng bé Thu lại ngày càng xa cách, phản ứng dữ dội mỗi lần phải nhắc đến từ “ba”. Trước sự cứng đầu của con gái, ông Sáu buồn và bất lực nhưng cũng chỉ biết lắc đầu cười chua xót. Và rồi đến khi con nhận ra mình thì cũng là lúc ông phải lên đường. Giây phút ông Sáu được nghe tiếng gọi “ba” mà ông mong ngóng bấy lâu thì cũng là lúc hai cha con phải xa nhau. Tình yêu và sự kìm nén bấy lâu đã khiến một người đàn ông phải “rút khăn lau nước mắt”.

Ông Sáu trở lại chiến trường, lúc nào cũng canh cánh với lời hứa tặng con một cây lược. Ông gửi gắm tình yêu và nỗi nhớ con vào chiếc lược nhỏ, “thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Nhưng chiến tranh tàn khốc khiến ông không kịp đưa chiếc lược trao tận tay con mình. Ông Sáu hy sinh trong một trận càn quét của địch. Những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông không kịp căn dặn điều gì, duy chỉ có “tình cha con là không thể chết”, nỗi bận lòng cuối cùng của ông vẫn là người con gái bé bỏng, yêu thương.

Nếu như ở nhân vật ông Sáu ta thấy được tình yêu sâu nặng của người cha dành cho con gái thì bé Thu lại mang đến một tính cách hồn nhiên mà cứng cỏi, yêu ba tha thiết. Cô bé có tính cách yêu ghét rạch ròi, nhất định không chịu gọi “ba” vì đinh ninh ông Sáu không phải ba mình. Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, bé Thu “né” ngay từ “ba” mà chỉ nói trống không “Vô ăn cơm”. Khi mẹ dặn nhờ ba chắt nước nồi cơm, bị dồn vào thế khó vì nồi cơm quá lớn, đứng trước sự lựa chọn là để cơm nhão hay gọi một tiếng “ba” để ba giúp, cô bé đã tự đưa ra một giải pháp khác – tự mình xoay xở, tự lấy muôi múc từng chút nước một. Bé Thu thông minh, nhanh nhẹn và rất cá tính.

Đỉnh điểm câu chuyện là lúc ông Sáu gắp cho con một cái trứng cá nhưng bé Thu không ăn lại hất ra và bị ba đánh. Trái với suy nghĩ của mọi người là cô bé sẽ khóc lóc, ăn vạ, nhưng bé Thu lại lặng im gắp cái trứng cá vào bát rồi bỏ sang nhà ngoại. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng với tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không hề đáng trách. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu hết được sự khốc liệt của chiến tranh mang lại.Thu không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết thẹo trên mặt khiến ông trông khác với tấm hình chụp chung với mẹ. Trong tâm trí của Thu, ba phải là người giống hệt tấm ảnh mình vẫn hay thấy. Sự ngây thơ của con trẻ khiến người đọc vừa thấy cười, vừa thấy thương. Chiến tranh để lại muôn vàn nỗi đau, nhưng có lẽ nỗi đau tình thân bị chia cắt là đau đớn nhất.

Khi đã được bà ngoại giải thích, Thu trăn trở “thở dài như người lớn”. Có lẽ cô bé đang hối hận vì đã xa lánh, ngang bướng với ba. Tất cả nỗi nhớ mong, suy tư dồn nén như được giải tỏa vào sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường. Bé Thu gọi to một tiếng “ba” – tiếng gọi mà cô bé ao ước được gọi từ lâu. Tiếng gọi như “xé cả ruột gan”, “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Cô bé níu chặt lấy cổ ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài đáng sợ bên má của ba nữa. Qua tâm lý và hành động của bé Thu, tác giả đã khắc họa rõ nỗi đau chiến tranh, chiến tranh đã khiến bao gia đình chia cắt, vợ mất chồng, con không nhận ra cha… Một tiếng gọi “ba”, một cái ôm của ba và con tưởng chừng như đơn giản nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh lại trở nên khó khăn, xa vời.

Nguyễn Quang Sáng đã rất tài tình khi tạo dựng được tâm lý nhân vật rất đặc sắc. Bác Ba điềm tĩnh, quan tâm đến đồng đội. Ông Sáu yêu thương con vô hạn, mong từng giây từng phút để gặp con; đau khổ, bất lực khi con bướng bỉnh hay nhớ thương, gửi gắm tình yêu vào cây lược tặng con. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được nhân vật bé Thu hồn nhiên mà cá tính, đôi khi bướng bỉnh nhưng yêu ghét rõ ràng. Cô bé rất yêu ba, rất nhớ ba nhưng vì sự ngây thơ của trẻ nhỏ cùng với tính cách cứng cỏi mà đã hiểu lầm ba.

Tác giả cũng khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống truyện éo le để họ tự bộc lộ tính cách của mình. Phải thấy ông Sáu trong tình huống oái oăm con không nhận cha thì mới hiểu được tình yêu tha thiết, nỗi khát khao được ở bên con của ông. Đặt bé Thu vào tình huống gặp lại ba khi trên mặt ba thay đổi, có một vết thẹo dài cho đến khi bé hiểu ra nguyên nhân thì mới thấy được cô bé cũng yêu và tôn thờ ba đến nhường nào. Vì quá yêu ba nên mới không chấp nhận một người nào “trông khác với ba trong tấm hình chụp chung với mẹ”. Tình huống truyện kịch tính nhưng vẫn rất tự nhiên, có tính chất đảo ngược tình thế để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, đồng thời giúp làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là tác phẩm bất hủ về tình cha con thiêng liêng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Câu chuyện về ông Sáu và bé Thu là minh chứng rõ ràng cho tình cha con thắm thiết, không điều gì có thể chia cắt. Qua câu chuyện, ta hiểu hơn về những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại để thêm tự hào và quý trọng cuộc sống hòa bình hôm nay.