Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khácĐọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi.
Đề 1: Phân tích các tầng nghĩa trong đoạn thơ sau:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu?
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
Đề 2: Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đề 3: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
Đề 4: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Đề 5: Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy gợi cho em những suy nghĩ gì?
Đề 6: Phân tích khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh.
Đề 7: Những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
Đề 8: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong bài Nói với con của Y Phương.
Câu hỏi:
a) Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?
b) Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ (hoặc có khi đề bài không có lệnh) biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm ? (Gợi ý: Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh, người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các "kiểu bài" khác nhau).
Trả lời:
a) - Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…
- Một loại đề không có những từ ngữ định hướng: đề số 4, đề số 7.
b) Các từ ngữ trong đề bài như: phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.
- Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài.
1. Các bước làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Cho đề bài: Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
a) Tìm hiểu đề và tìm ý
Đề bài yêu cầu phân tích những biểu hiện của tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương của Tế Hanh. Để thực hiện đúng yêu cầu ấy, trước tiên cần tìm hiểu về bài thơ:
- Đọc kĩ bài thơ để xác nhận tình yêu quê hương cùng những biểu hiện của nó.
- Bài thơ được sáng tác vào thời gian nào, ở địa điểm nào, trong tâm trạng như thế nào?
Từ đó trả lời các câu hỏi:
+ Trong cách xa, nhà thơ nhớ về quê hương như thế nào? Hình ảnh làng quê hiện lên trong nỗi nhớ của Tế Hanh có những đặc điểm và vẻ đẹp gì?
+ Bài thơ có các hình ảnh, câu thơ nào gây ấn tượng sâu sắc đối với em. Ngôn từ, giọng điệu của Quê hương có gì đặc sắc?
Từ việc tìm hiểu kĩ bài thơ Quê hương, có thể khái quát thành những luận điểm nào về tình yêu quê hương trong bài thơ?
b) Lập dàn bài
- Mở bài: Giới thiệu bài thơ Quê hương, nêu ý kiến khái quát của mình về tình yêu quê hương trong bài thơ.
- Thân bài: Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ:
+ Khái quát chung về bài thơ: Một tình yêu tha thiết, trong sáng, đậm chí lí tưởng, lãng mạn.
+ Cảnh ra khơi: Vẻ đẹp trẻ trung, giàu sức sống, đầy khí thế vượt trường giang.
+ Cảnh trở về: Đông vui, no đủ, bình yên.
+ Nỗi nhớ: Hình ảnh đọng lại : vẻ đẹp, sức mạnh, mùi nồng mặn của quê hương.
- Kết bài: Cả bài thơ là một khúc ca quê hương tươi sáng, ngọt ngào. Nó là sản phẩm của một tâm hồn thơ trẻ trung, tha thiết, đầy mơ mộng.
c) Viết bài
Dựa vào dàn bài đã lập, viết thành bài văn hoàn chỉnh. Trong quá trình viết, cần chú ý tới liên kết giữa các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài; chú ý tới cách dẫn dắt, chuyển tiếp giữa các luận điểm.
d) Đọc lại bài viết và sửa chữa
Đọc lại bài để sửa các lỗi diễn đạt, chính tả (nếu có).
2. Cách tổ chức, triển khai luận điểm
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.
QUÊ HƯƠNG TRONG TÌNH THƯƠNG, NỖI NHỚ
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng chài ở một cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vẫn thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ.
Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết, trong sáng, đầy thơ mộng của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng trong một sớm mai đẹp như mơ:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng.
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh
Tâm hồn nhà thơ náo nức những hình ảnh đầy sức mạnh:
Chiếc thuyền nhẹ nhàng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Bằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ khắc họa tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm ! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn tha thiết gắn bó nên mới liên tưởng : Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đây.
Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe",
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền, hơi thơ băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái, và dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân lang. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương :
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Chỉ ai là người con của một vàn chài mới viết được những câu thơ như thế. Tế Hanh như khắc tạc tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài nồng thở vị xa xăm - vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối mặn mòi ấy ngấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã ngắm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kì diệu?
Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng nàn quá - câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh.
Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi người chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.
(Bài làm của học sinh)
Câu hỏi:
a) Trong văn bản trên, đâu là phần Thân bài? Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương của bài thơ Quê hương? Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao?
b) Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này?
Trả lời:
a) Các phần của văn bản:
+ Mở bài (từ đầu đến “thành công khởi đầu rực rỡ”): giới thiệu về nhà thơ và bài thơ.
+ Thân bài (từ “Nhà thơ đã viết” tới “thành thực của Tế Hanh”): phân tích vẻ đẹp của hình ảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và cảnh đoàn thuyền đánh cá lúc trở về.
+ Kết bài (phần còn lại): nếu lên giá trị của bài thơ đối với người đọc trong việc bồi đắp tình yêu quê hương.
- Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu.
b) Văn bản có sức thuyết phục bởi vì:
- Hệ thống luận điểm rõ ràng, hợp lí.
- Người viết đã đưa ra những nhận xét, những cảm thụ của riêng mình.
- Giọng văn truyền cảm, lôi cuốn.
1. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần được bố cục mạch lạc theo các phần:
- Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của mình. (Nếu phân tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó.)
- Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
- Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
2. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần nrru lên được các nhận xét, đánh giá và sự cảm thụ riêng của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc,... của tác phẩm.