Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khác- Ở Đàng Ngoài, thời kì Mạc Đăng Doanh phát triển thịnh trị và nông nghiệp được mùa. Nhưng sau xung đột Nam-Bắc, kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Tuy nhiên, ở Đàng Trong, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ nhờ chính sách khuyến khích khai hoang và định cư của chúa Nguyễn, đặc biệt ở vùng sông Đồng Nai và sông Cửu Long.
- Sự phát triển nông nghiệp ở Đàng Trong dẫn đến sự hình thành một tầng lớp địa chủ lớn và đất khai hoang vẫn còn nhiều. Chính sách khuyến khích này vẫn còn tác dụng đến đầu thế kỉ XVIII, làm cho tình trạng nông dân thiếu ruộng không trầm trọng như ở Đàng Ngoài.
- Một số nghề thủ công mới xuất hiện và phổ biến trong thế kỉ XVII, XVIII: khai mỏ, khắc in bản gỗ, làm đường cát trắng
- Các làng nghề nổi tiếng: Thổ Hà, Bát Tràng, La Khê, Yên Thái, Nho Lâm, các làng đường ở Quảng Nam
- Người dân ở các làng nghề làm ruộng và sản xuất hàng thủ công
- Một số thợ thủ công dời lên thành thị và lập phường để sản xuất và bán hàng.
- Hoạt động buôn bán phổ biến từ thế kỉ XVII, có nhiều chợ làng, huyện, phủ
- Đất kinh kì phố chợ nhộn nhịp nên người dân gọi Thăng Long thời kì này là Kẻ Chợ (người ở thị thành). Đàng Ngoài nổi tiếng với Phố Hiến. Đàng Trong với các địa danh nổi tiếng là Thanh Hà, Hội An, Bến Nghé, Cù lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên
- Người nước ngoài mang đến mặt hàng len dạ, bạc, đồng,... Vũ khí được chúa Trịnh, chúa Nguyễn ưu tiên mua bán với Bồ Đào Nha và Hà Lan. Gạo còn là mặt hàng xuất khẩu.
- Làng xã thờ thành hoàng, anh hùng dân tộc; người Việt gắn bó xóm làng, chùa chiền và sân đình là nơi diễn ra những hoạt động sinh hoạt văn hoá chính. Nhiều đình làng được trùng tu lại.
- Nho giáo suy thoái, đạo giáo và Phật giáo phục hồi. Phật giáo phát triển, nhiều chùa được xây dựng ở Đàng Trong. Thiên Chúa giáo được truyền bá đến Đại Việt vào đầu thế kỉ XVI và tăng số giáo dân nhanh chóng đến cuối thế kỉ XVII.
- Làng xã thờ thành hoàng, anh hùng dân tộc; người Việt gắn bó xóm làng, chùa chiền và sân đình là nơi diễn ra những hoạt động sinh hoạt văn hoá chính. Nhiều đình làng được trùng tu lại.
- Nho giáo suy thoái, đạo giáo và Phật giáo phục hồi. Phật giáo phát triển, nhiều chùa được xây dựng ở Đàng Trong. Thiên Chúa giáo được truyền bá đến Đại Việt vào đầu thế kỉ XVI và tăng số giáo dân nhanh chóng đến cuối thế kỉ XVII.
- Cho đến thế kỉ XVII, Tiếng Việt phong phú và có thể diễn đạt mọi mặt của cuộc sống.
- Người phương Tây học tiếng Việt bằng chữ cái La-tinh để truyền đạo, dẫn đến hình thành chữ Quốc ngữ do A-lếch-xăng Đơ-Rốt phát triển.
- Thế kỉ XVI - XVIII là thời kì phát triển mạnh mẽ của văn thơ Nôm và văn học dân gian, với nhiều tác phẩm tiêu biểu.
- Công trình sử học, địa lý và quân sự tiêu biểu được viết trong thời kì này.
- Nghệ thuật điêu khắc chuyên nghiệp và phong phú, phục vụ cho trang trí kiến trúc đình làng, chùa và tượng thờ.
- Những hình thức sinh hoạt văn hoá như đua thuyền, đánh cầu, đánh vật, đấu võ trở nên quen thuộc trong lễ hội ở làng quê. Hát chèo phổ biến ở Đàng Ngoài và hát tuồng phổ biến ở Đàng Trong.