Câu 1:
Truyền kì mạn lục - ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ trong dân gian.
Tham khảo:
Câu 2:
- Lời dẫn trực tiếp : "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa."
- Chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp:" Chàng vội gọi, nàng vẫn dứng giữa dòng mà nói vọng vào rằng nàng cảm ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết không bỏ. Nàng đa tạ tình chàng nhưng nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa"
Câu 3:
Do nàng đã chịu ơn cứu nàng của Linh Phi. Nàng là một người biết trọng ơn nghĩa.
Câu 4:
Vũ nương là người vợ thủy chung. Và nổi bật trong văn bản ta thấy Vũ Nương là một người vợ hết mực yêu thương chồng. Khi Trương sinh đi lính, nàng chẳng mong chàng áo gấm trở về mà chỉ muốn chồng được bình yên nơi chiến trường. Nàng lo lắng cho Trương sinh ở nơi biên ải chịu khó khăn vất vả không có người nương tựa. Khi bị Trương Sinh nghi oan nàng cũng chỉ hết mực giải thích để níu giữ hạnh phúc gia đình. Đến khi chết đi rồi, Vũ Nương cũng chẳng một lời trách móc, oán than Trương Sinh mà còn muốn về gặp chàng lần cuối. Phải chăng trăm năm mới có một người như nàng? (câu hỏi tu từ) Qua tác phẩm này, Nguyễn Du đã vẽ ra trước mắt chúng ta là một người phụ nữ tài đức vẹn toàn.
So sánh cảnh vật, không khí mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu. Cách dùng từ của tác giả trong những câu thơ này có gì đáng chú ý?
Cảnh vật và không khí của mùa xuân trong 6 câu thơ cuối có những nét riêng biệt so với 4 câu thơ đầu:
- Một khung cảnh yên tĩnh, êm ả, dường như lắng lại, đối lập với cảnh lễ hội náo nhiệt trước đó.
- Thời gian xế chiều tĩnh lặng.
- Cảnh được miêu tả thu hẹp lại quanh một dòng suối nhỏ, với dòng nước uốn quanh, nhịp cầu nho nhỏ, vẫn là cảnh mùa xuân nhưng là cảnh chiều, cảnh sau khi mọi người đã có một ngày tham gia lễ hội.
Cách dùng từ của tác giả trong đoạn thơ rất đặc sắc và giàu sức gợi:
Những từ ngữ “tà tà, thanh thanh, nao nao” không chỉ miêu tả sắc thái cảnh vật: thể hiện được không khí yên tĩnh, không gian nhỏ hẹp, sự chuyển động nhẹ nhàng mà còn miêu tả tâm trạng con người. Cảnh vật được cảm nhận qua tâm trạng con người nên cảnh mặt vật cũng đã nhuốm màu tâm trạng.
yêu cầu bn oi
k viết yêu cầu(đề bài) s bt trả lời
Bố cục và nội dung của bài thơ "Cảnh ngày xuân"
Phần 1: 4 câu thơ đầu
Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.
Phần 2: 8 câu tiếp
Cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh và cảnh chị em Thuý Kiều đi du xuân.
Phần 3: 6 câu cuối
Cảnh chị em Thuý Kiều đi du xuân trở về.
viết đoạn văn so sánh bốn câu thơ đầu với sáu câu thơ cuối trong đoạn trích "cảnh ngày xuân"
Khung cảnh mùa xuân được miêu tả qua những chi tiết nào? Nêu nhận xét về cách dùng từ ngữ và bút pháp nghệ thuật của nguyễn du khi tả cảnh mùa xuân.
- Khung cảnh mùa xuân : chim én chao liệng, trời xuân cao rộng, trong sáng, thảm cỏ non, vài bông hoa lê trắng. Cảnh ngập sắc trắng và xanh → tươi đẹp, êm đềm.
- Cách dùng từ chọn lọc, tinh tế đầy sức gợi. “điểm” vài bông hoa khiến cảnh vật có hồn, không tĩnh tại. Miêu tả theo lối chấm phá điểm xuyết của thơ ca cổ. “Con én đưa thoi” một phép ẩn dụ nhân hóa tạo thêm nét sinh động cho cảnh sắc
❤❤❤
- Hai câu thơ đầu vừa gợi tả thời gian, vừa gợi tả không gian mùa xuân:
+ Câu thơ thứ nhất “Ngày xuân con én đưa thoi” vừa tả không gian: ngày xuân, chim én bay đi bay lại,chao liệng như thoi đưa; vừa gợi thời gian: ngày xuân trôi nhanh quá, tựa như những cánh én vụt bay trên bầu trời.
+ Câu thơ thứ hai “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” vừa gợi thời gian: chín chục ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi ngày (tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba); vừa gợi không gian: ngày xuân với ánh sáng đẹp, trong lành (thiều quang)
- Hai câu thơ sau là một bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân với hai sắc màu xanh và trắng:
+ Chữ “tận” mở ra một không gian bát ngát, thảm cỏ non trải rộng đến tận chân trời làm nền cho bức tranh xuân.
+ Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng . Không gian như thoáng đạt hơn, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn. Chỉ bằng một từ "điểm", nhà thơ đã tạo nên 1 bức tranh sinh động hơn, cảnh vật có hồn hơn, chứ không tĩnh tại, chết đứng.Cách thay đổi trật tự từ trong câu thơ làm cho màu trắng hoa lê càng thêm sống động và nổi bật trên cái nền màu xanh bất tận của đất trời cuối xuân.
=> Mùa xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non); khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời); nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa).
=> Bằng một vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã phác họa nên 1 bức tranh xuân sinh động, tươi tắn và hấp dẫn lòng người.
Đoạn trích đã thể hiện bút pháp tả cảnh giàu chất tạo hình, chuyển từ miêu tả sang tả cảnh ngụ tình trong nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ trong sáng giàu chất thơ của Nguyễn Du.
không khí và hoạt ảnh của lễ hội trong tiết thanh minh được tái hiện như thế nào ? cách miêu tả của tác giả có gì đặc sắc
- Phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh).
- Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bằng các từ ghép tính từ, danh từ, động từ:
- Gần xa, nô nức (tính từ): tâm trạng nao nức
- Yến anh, tài tử, gia nhân, chị em (danh từ): gợi sự đông vui náo nhiệt
- Sắm sửa, dập dìu (động từ) không khí rộn ràng, nhộn nhịp
\(\Rightarrow\) Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ gợi tả không khí cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi, cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người việt tưởng nhớ đến người khuất.
- Từ ghép là tính từ, danh từ, động từ gợi không khí lễ hội rộn ràng, náo nức, nhộn nhịp, đông vui :
+ Danh từ : yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần.
+ Động từ: sắm sửa, tảo mộ, đạp thanh, bộ hành
+ Tính từ : dập dìu, gần xa, nô nức, ngổn ngang.
- Lễ hội truyền thống : đông vui, nhộn nhịp và cũng rất thiêng liêng (tảo mộ).
-Tiết thanh minh gắn liền vs lễ tảo mộ và hội đạp thanh.Đó là những ngày lễ hội giàu giá trị văn hóa tinh thần của người xưa.Tác giả đã rất tài tình khi tách lễ-hôi làm đôi để gợi tả 2 hoạt động diễn ra cùng 1 lúc.Phần lễ là ngày lễ mà giàu giá trị vh và quen thuộc của người VN ta.Trong ngày đó,mn cùng nhau thăm viếng,sửa san lại phần mộ tổ tiên,rắc thoi vàng và đốt tiền giấy để tưởng nhớ những người đã khuất.Không khí mang màu sắc cổ kính,thiêng liêng.
-"Ngày hội đạp thanh"là ngày du xuân của mn và dịp đầu năm(tức là đi chơi xuân ở chôn đồng quê dẫm lên cỏ xanh).Hôi đạp thanh đc gợi lên qua hàng loạt các từ 2 âm tiết(từ ghép và từ láy),các danh từ(yến anh,chị em,tài tử,giai nhân)để gợi sự đông vui,trẻ trung.các động từ(đập dìu,sắm sửa)gợi lên sự rộn ràng náo nhiệt.Các tính từ(gần xa,nô nức)lm rõ hơn tâm trạng của người đi hội.Hình ảnh ẩn dụ:nô nức yến anh"là 1 hình ảnh ước lệ cổ điển gợi lên hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp chơi xuân,kết hợp vs phép so sánh:"ngựa...nêm"lm nổi bật sự đông vui bao trùm cả cõi nhân gian
Nếu như phần lễ gắn liền vs những hồi ức tưởng niệm quá khứ thì phần hội lịa tạo ra những niềm vui hiện tai.Hai cảm giác như giao hòa khiến cho con người vui hơn trong những ngày xuân.
câu dập dìu tài tử giai nhân sử dụng biện pháp tu từ gì
Câu này chỉ có từ láy dập dìu ,từ ghép tài tử giai nhân Tác dụng là để gợi lên khung cảnh lễ hội rộn ràng
có sử dụng từ láy "dập dìu" và từ ghép "tài tử giai nhân" diễn tả khung cảnh chơi xuân đông đúc,rộn ràng,nhộn nhịp,vui tươi,có trai tài gái sắc....
văn 9 từ đoạn trích cảnh ngày xuân nêu suy nghĩ của em về việc giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc
cảm nhận của em về 4 câu thơ đầu của đoạn trích "Cảnh Ngày Xuân"trích "Truyện Kiều"của Nguyễn Du bằng một đoạn văn ngắn(Từ 10-12 dòng).
“ Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba. Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá. Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Cảm nhận của em về đoạn trích cảnh ngày xuân
bietdinhkh