Có thể nói Việt Nam là đất nước của nhiều lễ hội. Trong dịp Tết Nguyên Đán, hầu như ở khắp các địa phương đều tổ chức lễ hội mùa xuân với những trò chơi dân gian vui tươi, bổ ích và giàu ý nghĩa. Đây cũng là phong tục tập quán tốt đẹp đã có từ lâu đời của nhân dân ta. Tỉnh Hà Tây quê em (nay thuộc Hà Nội) có những lễ hội nổi tiếng được nhiều người biết đến.
Trước hết phải kể tới lễ hội chùa Hương. Chùa Hương là một quần thể danh lam thắng cảnh thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức. Tạo hóa đã hào phóng ban phát cho nơi đây một vẻ đẹp thần tiên hiếm có. Những dãy núi đá vôi tím biếc, trập trùng, quanh năm mây phủ, nổi bật trên đồng ruộng xanh ngắt, bao la, đúng là sơn thủy hữu tình. Động Hương Tích và hàng chục ngôi chùa cổ cheo leo trên sườn núi đá, ẩn mình giữa không gian tĩnh lặng, thanh khiết vô cùng! Sau Tết, chùa Hương mở hội. Lễ hội kéo dài suốt từ mùng 6 tháng Giêng đến tận 15 tháng Ba Âm lịch. Hàng chục vạn du khách từ muôn phương đổ về đây lễ Phật cầu may và ngắm cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, để cho tâm hồn lâng lâng thanh thoát, trút sạch những vướng bận đời thường, thêm yêu cuộc sống.
Chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai thờ Đức Phật Thích Ca và Thiền sư Từ Đạo Hạnh với hóa thân ba kiếp sống của ông. Lễ hội chùa Thầy diễn ra từ mùng 5 đến mùng 7 tháng Ba Âm lịch với rất nhiều trò vui như đấu vật, cờ người, đánh đu… Đặc biệt là trò múa rối nước biểu diễn ở thủy đình trước sân chùa thu hút đông đảo người xem. Nhân vật chú Tễu với mái tóc trái đào và nụ cười tươi rói tượng trưng cho tinh thần lạc quan của người lao động.
Cùng dịp này còn có lễ hội chùa Tây Phương. Tây Phương là ngôi chùa nổi tiếng bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc tượng tinh xảo, được xây dựng cách đây đã mấy trăm năm trên ngọn đồi Câu Lậu, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất. Mùng 6 tháng Ba Âm lịch, chùa Tây Phương mở hội đón khách hành hương viếng chùa, thăm tượng, lễ Phật và cầu mong mọi sự tốt lành cho năm mới.
Việt Nam có hàng nghìn những ngôi chùa, ngôi đền lớn nhỏ dùng để thờ Phật, thờ các vị thần trong tự nhiên hay thờ những nhà tu hành có đạo hạnh, có duyên với nhà Phật. Từ Băc chí Nam, đi đến bất cứ địa phương nào thì ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp những ngôi chùa linh thiêng, cổ kính, các vị thần được thờ có thể là khác nhau nhưng điểm chung đó là không gian chùa vô cùng thiêng liêng, thành kính mà nếu như có những khó khăn, trở ngại nào trong cuộc sống thì chỉ cần thành tâm cầu nguyện thì mọi việc sẽ trôi chảy, thuận lợi. Hà Tây quê em là mảnh đất truyền thống văn hóa với những tín ngưỡng từ lâu đời, nói đến ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Hà Tây thì có thể kể đến, đó là chùa Thầy.
Chùa Thầy là một ngôi chùa nhỏ nằm ở chân núi Sài Sơn, trực thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây ( nay là tỉnh Hà Nội). Sài Sơn xưa còn được gọi với cái tên khác là núi Thầy nên ngày nay, người ta biết đến ngôi chùa Sài Sơn xưa với cái tên là chùa Thầy. Đây là ngôi chùa được xây dựng để thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh, tương truyền rằng nửa cuối của cuộc đời mình, nhà sư Từ Đạo Hạnh đã tu luyện ở ngọn Sài Sơn, nên khi Từ Đạo Hạnh mất thì người dân đã xây dựng ở đây một ngôi chùa, khi ấy núi Thầy chưa được gọi là núi Thầy mà gọi với cái tên khác là núi Phật Tích, trùng với tên của chùa Phật Tích ở Hương Sơn ngày nay.
Ở miền Bắc Việt Nam, ngoài chùa Hương và chùa Tây Phương, chùa thầy chính là một trong ba ngôi chùa lớn nhất, nổi tiếng nhất của thành phố Hà Nội ngày nay. Chùa Thầy được xây dựng vào khoảng thế kỉ mười bảy, vào thời nhà Đinh, ban đầu, chùa thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, đây là nơi mà nhà sư Từ Đạo Hạnh tu hành cuối đời, cũng là nơi mà nhà sư từng làm trụ trì, khi mất người dân lập am để thờ nhà sư này. Sau này, nhà vua Lí Nhân Tông đã cho người xây dựng, tu sửa lại chùa Thầy gồm hai cụm chùa là Đỉnh Sơn Tự và Thiên Phúc Tự.
Chùa Thầy được xây dựng trên thế đất hình Rồng, theo thuyết phong thủy thì đây là một mảnh đất đẹp, linh thiêng phù hợp với không gian tu hành. Mặt khác, chùa lại giáp với ngọn Long Đẩu nên người ta càng có cơ sở để tin đây chính là mảnh đất rồng. Bởi vậy mà trong chùa có một hồ nước rộng được đặt tên là Long Chiểu, hay có cách gọi khác chính là Long Trì ( ao Rồng). Lễ hội chùa Thầy thường được tổ chức vào ngày mùng năm đến ngày mùng bảy tháng ba âm lịch hàng năm. Cứ đến ngày mở hội thì du khách thập phương từ khắp nơi trên đất nước kéo về hành hương. Không chỉ có du khách thập phương mà những tăng ni, phật tử cũng về đâytụng kinh, làm lễ tế Phật.
Một nét đặc biệt trong lễ hội chùa Thầy hàng năm, đó chính là phần lễ được thực hiện kết hợp với phần âm nhạc diễn xướng. Khi tiến hành lễ cúng Phật trai đàn thì đồng thời diễn ra một hình thứ diễn xướng tôn giáo độc đáo, đó chính là phần tế lễ kết hợp với sự hòa âm của các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, sáo, đàn nhị, đàn bầu..Làm cho không gian lễ hội ở chùa thầy khác hẳn với các buổi tế lễ ở các ngôi chùa khác. Khi các tăng ni tiến hành phàn lễ, những phật tử bốn phương sẽ ngồi ở ngoài sân, trong đình để cầu xin bình an cho gia đình, cho bản thân.
Lễ hội nào cũng vậy, bên cạnh nghi thức lễ sẽ là phần hội. Và lễ hội chùa Thầy cũng không phải một ngoại lệ. Mỗi năm, vào mùa lễ hội, nam thanh nữ tú ở khắp nơi sẽ kéo về để tham gia lễ hội leo núi và bày tỏ tình cảm yêu thương với nhau trong một không gian thiên nhiên hùng vĩ, rộng mở. Nói về phần lễ hội đặc biệt này, nhà thơ Trần Tuấn Khải cũng có những câu thơ khái quát được không gian hội hè ở chùa Thầy như sau:
“Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đườn trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải chăng non đã vô tình với ai….”
Bên cạnh lễ hội leo núi của nam thanh nữ tú thì còn diễn ra một trò chơi mang đậm màu sắc dân gian, đó chính là trò múa rối nước. Những người nghệ nhân dân gian sẽ dùng những con rối quen thuộc như: chú Tễu…để tạo ra một vở kịch rối nước đầy độc đáo. Phần lễ này thu hút đông đảo du khách tham quan vì những vở kịch được diễn vô cùng độc đáo, và ấn tượng nhất chính là vở kịch rối nước về cuộc đời tu hành của nhà sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa Thầy là một không gian chùa chiền đầy thiêng liêng, thành kính không chỉ thu hút ở phần lễ mà ngay cả phần hội cũng vô cùng đặc sắc, đây là một địa điểm du xuân lễ phật lí tưởng của mọi người mỗi dịp đầu xuân.
– Trò chơi thi kéo co ở làng Hữu Trấp, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
– Trò chơi thi kéo co ở làng Tích Sơn, thuộc thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
b) Bạn có thể thuật lại trò chơi ở hai địa phương trên như sau:
– Thi kéo co ở làng Hữu Trấp, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh:
Trò chơi diễn ra giữa hai đội: Đội nam và đội nữ. Có năm thì bên nam thắng nhưng cũng có năm bên nữ thắng. Dù bên nào thắng thì cuộc thi cũng là một ngày hội đua tài đua sức thật sôi nổi, thật vui và náo nhiệt.
– Thi kéo co ở làng Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc:
Thi kéo co giữa trai tráng hai giáp trong làng. Số người của mỗi bên không hạn chế. Nhiều khi có giáp thua keo đầu, tới keo thứ hai được tăng viện, người đông hơn thế là chuyển bại thành thắng. Sau cuộc thi, dân làng nổi trông mừng bên thắng.
Lễ hội là tín ngưỡng văn hoá của mỗi dân tộc. Hầu như làng, xã nào cũng có lễ hội được tồ chức vào đầu xuân. Mọi người dân Thuận Thành, Bắc Ninh thường có câu ca:
Dù ai buôn đâu, bán đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Câu ca dao như một lời nhắc nhở các tín đồ phật giáo hãy nhớ về hội Dâu được tổ chức vào đầu xuân hàng năm.
Hội Dâu được tổ chức vào mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Chùa Dâu là một ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào những năm đầu thế ki XV. Mặc dù vậy chùa Dâu vẫn giữ được những nét nguyên bản từ khi được xây dựng tới nay. Hàng năm, chùa Dâu thu hút rất nhiều tín đồ đến thắp hương, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Vào mỗi dịp lễ hội, người dân háo hức tổ chức sửa sang chùa chiền. Ngay từ chiều mùng 7 đã có lễ rước các bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Keo mà theo truyền thuyết bốn bà được tạc từ một cây dâu, chị cả là bà Dâu nên chùa Dâu được xây dựng lớn nhất. Đặc biệt vào ngàv mồng 7, các vãi đến để cúng, quét dọn và làm lễ rửa chùa. Ngày hội chính diễn ra rất sôi động, náo nhiệt. Mọi người đến đây với lòng thành kính, kính mong đức phật ban cho sự an lành, ấn no. Chùa có rất nhiều gian, điện, đặc biệt có pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ đạt đến chuẩn mực nghệ thuật cao với các tỉ lệ của người thật. Hành lang hai bên có những pho tượng với nhiều tư thế, nét mặt khác nhau. Người ta đến lỗ hội không chỉ để thắp hương, cầu an mà còn để vui chơi, đón không khí ngày xuân. Có rất nhiều trò chơi được tổ chức trong lễ hội như: đu quay, hát quan họ đối đáp, giao duyên giữa các liền anh, liền chị dưới thuyền rồng với những trang phục mớ ba, mớ bảy cổ truyền. Khắp sân chùa là những hàng bán đồ cúng, những nén hương trầm, hay những đồ chơi dân gian cho trẻ em như sáo, trống… hoặc chỉ là những bông lan thơm ngát. Tất cả tạo ra một không khí cộng đồng ấm cúng. Mọi người quên đi sự bận rộn, quên đi sự bon chen, thách thức để nhớ tới đức phật cùng sự thánh thiện, nhớ tới cõi bình an của tâm hồn. Khoảng 7 giờ sáng ngày 8/4, người ta đã nghe thấy tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng cúng tế dâng sớ cầu mong bình an, lạy tạ các vị thánh thần, phật pháp của đội tế lễ tứ sắc chùa lập ra. Đặc biệt, ở lễ hội Dâu thờ Tứ Pháp là Pháp Vân (bà Dâu), Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Sau khi các cụ làm lễ xong, đoàn rước từ chùa Tổ bắt đầu quay về, hàng đoàn người kéo nhau đi theo hộ tống. Người đi đầu cầm bình nước, người thứ hai dâng hương, tiếp đó là đoàn kiệu được những trai tráng của lồng khiêng. Họ mặc những trang phục như quân tốt đỏ thời xưa, theo sau là các bà mặc áo nâu đội sớ. Người cầm nước vừa đi vừa cầm cành trúc vẩy nước vào những người xung quanh như ban sự may mắn cho mọi người. Người ta quan niệm rằng ai được vẩy nước vào sẽ may mắn, được Phật ban phước quanh năm và được Phật phù hộ, bảo vệ. Khi hội tan, mọi người về rồi thắp hương ở ngoài sân thờ nhớ lời hẹn gặp năm sau. Nhưng lạ lùng hơn hầu như năm nào sau hội trời cũng mưa và người dân cho đấy là lễ tẩy chùa, ở một khía cạnh nào đó thì đây được coi như một điều linh nghiệm huyền bí.
Lễ hội thể hiện trình độ tổ chức cao, sự kết hợp giữa làng xã và ý thức cộng đồng, cuốn hút khách thập phương với những nét nghệ thuật, văn hoá đặc sắc, phong phú. Đối với Bắc Ninh, cái nôi của Phật giáo thì đây là dịp thể hiện sự tài hoa, tinh tế, lịch lãm trong văn hoá ứng xử, giao tiếp. Là một người con của Bắc Ninh, em cảm thấy tự hào về truyền thống của quê hương mình và em sẽ luôn có ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét văn hoá ấy, đặc biệt là những lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hoá dân tộc vào những ngày đầu xuân.
Tháng giêng là tháng ăn chơi... và cũng là mùa lễ hội. Suốt một dải làng quê từ bắc sông Hồng vắt ngang sông Đuống lần lượt mở hội làng. Từ xa, đã có thể thấy thấp thoáng bóng cờ đuôi nheo ngũ sắc và vẳng nghe tiếng trống giục giã, khi khoan, lúc đổ dồn.
Hấp dẫn hơn cả vẫn là hội làng Lũng Sơn - hội Lim. Từ trong Tết, người ta đã rục rịch sắm sửa mũ áo, cờ quạt, mời bạn gần bạn xa, nhất là bạn quan họ. Cả một vùng như ngâm men say, như cuống lên vì hội Lim. Võng, lọng, kiệu, áo... vừa trang nghiêm vừa xúng xính gợi nhớ một quá vãng vàng son đã rất xa,
Một cô bạn Nhật đang học tiếng Việt ở trường Tổng hợp Hà Nội đã đến hội từ ba hôm nay, cười và kéo chúng tôi đi theo. Cô thạo đường làng như dân gốc Lim. Thì ra cô và các bạn tập kết ở nhà một anh hai quan họ và đã thức trọn hai đêm với hai anh quan họ mà theo cô ‘thật tuyệt vời’...
Hội Lim mở suốt ba ngày ba đêm. Cùng với cây đu, ván cờ người, thi vật... quan họ qua bao thăng trầm, mất mát của chiến tranh vẫn giữ nguyên nét duyên dáng, tình tứ, say lòng người. Khách thập phương và người làng, kim và cổ, tục và thanh đan xen, trộn lẫn, la đà trong men say của các làn điệu, dải thắt lưng xanh và làn môi cắn chỉ của những liền chị...
Chẳng cần đến câu hát người ở đừng về, thì cũng chẳng ai muốn về. Mà có về thì cũng mong ‘đến hẹn lại lên’.
Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người Việt Nam từ cổ xưa đến nay. Văn hóa vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đã thành phong tục đặc sắc là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân gian bản địa cổ truyền.
Thuyền rồng để vua dùng gọi là “thuyền ngự”. Thuyền rồng trong lễ hội dân gian mang ý nghĩa linh thiêng, trang trọng. Đặc biệt, ở những lễ hội thờ các vị anh hùng dân tộc, võ tướng, có công đức thì theo ý niệm dân gian, chính các Ngài đã về “ngự” trên thuyền để việc cầu phúc, cầu sức khỏe, an khang thịnh vượng của người tổ chức hội, dự hội, xem hội được như ý nguyện. Dân đi biển Cát Bà, Cát Hải, Đồ Sơn... thường tổ chức đua thuyền hình rồng khi kết thúc vụ cá Bắc mở đầu vụ cá Nam khoảng tháng 4, 5 dương lịch... tạo thành nét văn hóa biển độc đáo. Dịp lễ cúng thần nước hay hạ thủy con thuyền cũng là thời điểm đua thuyền của cư dân ven sông, biển.
Lễ hội đền Quả xã Bạch Ngọc, huyện Đô Lương, Nghệ An có đua thuyền rồng. Vùng này có nơi toàn các tay đua nữ thi đấu với nhau như ở Xa Long, huyện Hương Sơn, còn thường thì nam thi với nam, nam thi với nữ cũng có nhưng ít hơn. Trước khi hạ thủy thuyền đua, có tục lệ trai đinh rước 12 thuyền rồng sau 4 ngựa gỗ, gồm hai ngựa hồng, hai ngựa bạch từ đền Quả đến hạ thủy ở sông Lam. Tương truyền, dân ở đây đua thuyền để tỏ lòng biết ơn công đức của Hoàng tử Uy Minh Vương, con trai thứ tám của vua Lý Thái Tổ.
Lễ hội đua thuyền rồng ở Đồng Hới (Quảng Bình) lại mang nét đặc sắc khác. Theo tín ngưỡng dân gian ở địa phương, thuyền rồng là “dương” đua với thuyền phượng là “âm”. Đua đường dài 20km từ đình làng Đồng Hải đến cửa sông Nhật Lệ, qua các địa hình, hướng gió khác nhau và theo với nước thủy triều lên, xuống. Cũng theo tín ngưỡng âm dương cổ, nhưng ở làng Đào Xá (huyện Tam Thanh, Phú Thọ) tạo dáng thuyền đua và quan niệm cũng có khác. Ở đây, “dương” lại là thuyền hình chim, “âm” có thuyền hình cá. Chỉ đua một chải đực (chim) với một chải cái (cá) về đêm, sau khi tế lễ xong và gọi là “tiệc bơi”, bơi để lễ thần.
Lễ hội thuyền đua làng Đăm (xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có từ thế kỷ XV, đầu và đuôi thuyền đều chạm hình rồng. Cuộc đua được tổ chức lúc chính Ngọ (12 giờ trưa) trên sông Nhuệ. Tương truyền hội đua thuyền vùng này để tưởng nhớ danh tướng Bạch Hạc Tam Giang thời vua Hùng thứ XVI. Có tới 172 làng thờ Bạch Hạc Tam Giang. Thuyền đua có hình đầu rồng, hình chim hạc và hình con ly (kỳ lân).
Vùng Trung Bộ do sông ngắn nên có tục lệ đua thuyền trên cạn, có hàng đoàn trai tráng “múa tay chèo” tượng trưng, có phần giống đua ghe ngo Nam Bộ. Vùng biển phía nam còn có tục lắc thuyền thúng đua ngày hội là một nét lạ, góp phần phong phú thêm lễ hội đua thuyền dân gian Việt Nam. Những lễ hội đua thuyền kể trên vừa mang tính thể thao, văn nghệ (ca múa nhạc) vừa là nét văn hóa vùng sông, biển, để cùng với các lễ hội đồng bằng tạo nên một phần của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Văn hóa vùng sông, biển với những tục lệ lâu đời đã thành phong tục đặc sắc là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân gian bản địa cổ truyền.