Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Chưa có thông tin , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 3
Số lượng câu trả lời 63
Điểm GP 13
Điểm SP 19

Người theo dõi (2)

H24

Đang theo dõi (0)


Câu trả lời:

Thanks

Câu trả lời:

Câu 4:

Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong hai đoạn trích sau:

   Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

   Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

         (Cảnh ngày xuân, trích Truyện Kiều, Nguyễn Du, Ngữ văn 9, tập 1)

Bài làm:

" Truyện Kiều" của đại thi hào là một kiệt tác văn học của Việt Nam ta. Tác phẩm không chỉthành công ở việc nói lên cuộc đời, thân phận khổ cực của  Thúy Kiều mà còn thành công ở việc miêu tả bức tranh thiên nhiên ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của giai nhân " hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh". Đoạn trích " Cảnh ngày xuân" và " Kiều ở lầu Ngưng Bích" là những minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du

 Trước hết đến với Cảnh ngày xuân ta bắt gặp cảnh thiên nhiên vào tiết trời mùa xuân tràn đầy sức sống, đẹp lung linh. Đây là những câu thơ thuộc phần I của 'Truyện Kiều" có sức làm say lòng người

“Ngày xuân con én đưa thôi.

Và:

Bỗng nhận ra hương ổi

   Phả vào trong gió se

   Sương chùng chình qua ngõ

   Hình như thu đã về

 

   Dông được lúc dềnh dàng

   Chim bắt đầu vội vã

   Có đám mây mùa hà

   Vắt nửa mình sang thu

(Sang Thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập 2)

Bài làm:

Mùa thu là nguồn cảm hứng thơ bất tận cho các thi sĩ. Nhà thơ nào cũng muốn vẽ được một bức tranh thu cho riêng mình. Và Hữu Thỉnh đã có được một cái tứ rất riêng đó là thời khắc lúc giao mùa. Bài thơ "Sang Thu" là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước sự biến đổi kì lạ trong thời khắc giao mùa của đất trời trong ngưỡng thu.

Sinh ra và lớn lên ở Vĩnh Phúc, Hữu Thỉnh không còn lạ lẫm gì với mùa thu đất Bắc. Thế nhưng, khi cảm nhận tín hiệu thu mến yêu, ông cũng không khỏi ngỡ ngàng. Đối với ông, thu đến với những cảm giác mơn man khó tả:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Như một quy luật tuần hoàn của tạo hóa, dường như thu đã lại sang. Có vẻ bức tranh thu đã được điểm những nét đầu tiên: hương ổi phả nhè nhẹ, thoang thoảng đưa vào trong gió se - gió đã nhẹ lại chứ không còn là “nồm nam cơn gió thốc” nữa rồi. Theo trong gió chính là làn hương mộc mạc của làng quê nhỏ. Lớp sương chùng chình khắp nơi dường như cũng chẳng muốn rời. Sương cũng mang đầy tâm trạng, bước đi chầm chậm theo nhịp điệu của mùa thu. Cái tín hiệu mùa thu đó là hương, là gió hay là sương? Chẳng lẽ là tất cả. Cái cảm giác bất ngờ thể hiện trong từ “bỗng” đầu tiên lan tỏa vào không gian rất đỗi thân quen, xao xuyến vô cùng. Chính thế mà thi sĩ còn đang ngỡ ngàng vẫn còn tự hỏi mình: Trong khi đất trời bắt đầu có những chuyển biến nhẹ nhàng, hình như thu đã về?... Nhận thấy đó mà chưa tin hẳn, vì lòng yêu say mùa thu quá.

 

Cái cảm giác “hình như” đó gần như bị xóa tan bởi những tín hiệu chuyển mùa dần hiện ra rõ hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Bức tranh thu dường như đã đậm màu hơn bởi cảnh vật ngày càng nhiều thay đổi: những con sông đã không còn gấp gáp, mà lững lờ trôi, chầm chậm, “dềnh dàng” khi dành nước cho mùa thu. Phải chăng chúng đã thả hồn mình vào các khoảnh khắc giao mùa này? Trái ngược với sự “lặng lẽ” đó là biểu hiện có vẻ gấp gáp của những cánh chim trời. Chúng đang vội vã làm gì? Làm tổ, tích trữ thức ăn cho mùa đông giá lạnh hay đang rục rịch chuẩn bị cho chuyến hành trình xa xứ tránh rét về một chân trời xa xôi nào đó? Hai câu thơ đã vẽ nên những nét đối lập: đâu phải mùa thu lúc nào cũng “lặng lẽ” bởi vạn vật xung quanh ta đều chuyển biến kì lạ theo cách riêng của chúng. Thiên nhiên đầy bí mật, cũng giống như cuộc sống chúng ta - một xã hội với nhiều tầng: có người giàu, có người nghèo, người đang hạnh phúc tận hưởng cuộc sống này, người đang tất tả mưu sinh. Đúng là đầy biến động! Nhưng hiện lên trong tất cả điểm sáng, có lẽ long lanh nhất chính là đám mây vấn vương chút nắng hạ:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Đám mây đó chắc còn lưu luyến chút gì của mùa hạ đang qua? Cũng có thể nó là kỉ niệm của “hạ” dành cho “thu”. Nó dường như là chiếc cầu nối hữu tình dành cho đôi bờ kì lạ. Cái khoảnh khắc thiêng liêng này đang đậu trên đám mây như là chứng tích của giao mùa. “Vắt” - đang đặt ngang trời hay chẳng biết đang ở chốn nào. Đám mây cứ nhè nhẹ trôi để rồi thời gian cũng chảy qua. Bức tranh thu đang chứa đựng cái nét hữu hình để gợi nên cái cảnh vốn vô hình!

Thu đã gần sáng, đất trời cũng đang đứng lại, nó không còn bất chợt đến, rồi lại bất chợt đi như mùa hạ nữa rồi:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Có thể nói rằng: Cái dáng hạ vẫn còn đó mà cái hồn hạ đã bay đi đâu rồi. Vẫn là cái nắng, mưa, sấm, chớp vương lại những cái dữ dội, khắc nghiệt của nắng, tính “đỏng đảnh” của mưa hay sự vội vàng của sấm thì đã nhạt dần theo từng phút giao mùa. Bức tranh sang thu càng lộ rõ thì những ý nghĩ về nhân tình thế thái cũng theo đó hiện lên.

 

Qua phép ẩn dụ ở hai dòng thơ cuối, người đọc cảm nhận sau tiếng “sấm” là những giông bão của cõi đời, cõi người. Hữu Thỉnh đã điểm nét chính vào bức tranh - đó là hình bóng con người. Hạ qua, thu đến, con người ta dường như đã già hơn một chút. Chính thế mà những kinh nghiệm đường đời đã dày thêm một ít trong hành trang của họ, giúp họ vững vàng hơn trước những phong ba của cuộc sống đầy biến động. Hữu Thỉnh đã cảm nhận được sâu sắc cuộc sống con người. Và thi nhân đã gửi vào thu lời nhắn nhủ con người sống phải biết chấp nhận và vững vàng vượt qua thử thách. Như thế, bài thơ vừa là một bức tranh thiên nhiên đẹp vừa là một phác họa đầy ám ảnh về con người - một phần diệu kì của thiên nhiên kì diệu.

Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ sắc sảo, giàu hàm nghĩa đã tạo nên những rung động, dấu ấn khó quên cho người đọc. Hữu Thỉnh đã trải lòng qua tuyệt tác lúc giao mùa: Sang thu!

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cảnh lê trắng điểm một vài bông hoa”.

Câu trả lời:

Phần II:

Câu 1:

-Bài thơ được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang học tập ở nước ngoài. Sống xa nhà, trong cái lạnh nơi đất khách quên người cùng với nỗi nhớ quê, nhớ bà, nhớ bếp lửa nồng đượm như một quy luật của tự nhiên, tâm lý đã thôi thúc nhà thơ viết nên bài thơ "Bếp lửa".

-Bài thơ được in trong tập "Hương cây- Bếp lửa" xuất bản năm 1968.

Câu 2:

-Trong câu thơ "Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi", "năm ấy" gợi nhớ đến thời điểm diễn ra nạn đói lịch sử năm 1945 ở miền Bắc với gần 2 triệu người chết.

-Việc nhà thơ tách từ “mòn mỏi” để góp thành “đói mòn đói mỏi” có tác dụng:

+Về mặt ngữ âm: tạo sự nhịp nhàng, hài hòa trong câu thơ.

+Về mặt cấu trúc: tạo nên sự cân xứng.

+Về ý nghĩa; nhấn mạnh sự nghèo đói khủng khiếp, gây ấn tượng cho người đọc về cảm giác nặng nề, u ám của nạn đói đối với nhân vật trữ tình khi hồi tưởng về thời điểm ấy của lịch sử, của kỉ niệm với người bà.

Câu 3:

Khổ thơ cuối của bài "Bếp lửa", nhà thơ đã thể hiện tình cảm sâu nặng của cháu đối với bà (1).Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà chịu khó, tần tảo, hết lòng yêu thương cháu đã trở thành sợi chỉ kết nối cảm xúc, khơi gợi những kỉ niệm ấu thơ ở đầu bài thơ và kết lại trong những suy ngẫm, tỏ bày những cảm xúc của cháu đối với bà (2). Những năm tháng tuổi thơ gian khổ cháu được bên cạch bà, được bà yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ, bảo ban (3). Bây giờ, cháu đã lớn, đã trưởng thành và được đi đến những nơi xa, nhìn thấy nhiều điều mới lạ, đón nhân những niềm vui mới (4). Nhưng khoảng cách về không gian, khoảng cách về thời gian và sự khác biệt về hoàn cảnh sống vẫn không thể thay thế được hình ảnh bà, hơi ấm bếp lửa, hơi ấm tình thương của bà ở trong trái tim cháu (5). Nơi phương trời xa xôi, cháu vẫn luôn nhớ về bà, nhớ những kỉ niệm tuổi thơ nhọc nhằn nhưng ấm áp tình bà, hai bà cháu quây quần bên nhau, cháu được đón nhận tình yêu và sự dạy dỗ của bà mà khôn lớn (6). Bếp lửa khói hun nhèm mắt và đôi bàn tay bà chi chút ngọn lửa, nhóm yêu thương, nhóm tâm tình tuổi nhỏ đã trở thành hành trang cho cháu trên những nẻo đường (7).  Cháu "vẫn chẳng lúc nào quên" bà, quên kỉ niệm bên bà, quên bếp lửa ấp iu nồng đượm (8). Phó từ "vẫn" cùng ý nghĩa phủ định "chẳng lúc nào quên" bộc lộ nỗi nhớ da diết và khẳng định tình cảm sâu nặng của cháu đối với bà (9). Câu thơ cuối là câu hỏi tu từ thể hiện tình cả mãnh liệt của cháu đới với bà (10). Bằng giọng thơ tâm tình sâu lắng, dạt dào cảm xúc, khổ thơ đã bộc lộ chân thành mà tha thiết nỗi nhớ, tình yêu và nỗi nhớ của đứa cháu ở nơi xa dành cho bà; cũng là biểu hiện của tình cảm đối với gia đình, quê hương, đất nước (11). Những điều bình dị, yêu thương, nồng ấm của tuổi thơ ấy mãi mãi sưởi ấm cuộc đời cháu, nâng đỡ bước chân cháu, là hành trang cháu mang theo trên hành trình dài rộng của cuộc đời (12).

Câu 4:

Trong chương trình môn Ngữ Văn cấp THCS, bài thở "Tiếng gà trưa" của Xuân Quỳnh cũng viết về tình cảm bà cháu thắm thiết. Bài thơ là dòng hồi tưởng tuổi thơ trong sáng bên bà, bộc lộ lòng kính yêu, biết ơn bà của đứa cháu và từ đó cháu suy ngẫm về mục đích chiến đấu của mình.

Câu trả lời:

Phần I :

Câu 3: Em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3 trang giấy thi) về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập phát triển.

Bài làm:

Như " Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi có viết " Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nên văn hiến đã lâu". Từ xưa đến nay, bản sắc văn hóa dân tộc luôn là giá trị cốt lõi của nền văn hóa, là tâm hồn là sức mạnh của dân tộc. Nên việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là điều mà thế hệ trẻ cần làm. Đặc biệt, là trong thời kỳ hội nhập và phát triển, đất nước mở cửa nên chúng ta tiếp thu được nhiều nền văn hóa khác nhau. Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư duy, lối sống của thế hệ trẻ theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện đại, tri thức mới... Nhưng chúng ta không thể làm mai một đi những bản sắc văn hóa dân tộc. Mà là một người trẻ cần học tập, nâng cao tri thức, tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Nhưng lấy nwhnxg sự học hỏi đó để làm giàu thêm, đẹp thêm vản hóa dân tộc. Mỗi người trong chúng ta cần phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân thật tốt, nỗ lực rèn luyện bản thân vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân.