Đối với đất nước ta, Tiếng Việt là tiếng nói chính thống của dân tộc Việt. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước dù đã có biết bao những biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng Tiếng Việt vẫn tồn tại và luôn được mỗi con người đất Việt gìn giữ và phát triển. Khi Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi, đất nước bước sang một kỉ nguyên mới – độc lập, tự do – tiếng Việt cũng giành được địa vị xứng đáng. Nó trở thành ngôn ngữ quan trọng trong mọi hoạt động hành chính, xã hội của đất nước. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam. Và từ đó đến nay, tiếng Việt không ngừng được hoàn thiện và ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu đi lên của xã hội và đất nước.
Tuy nhiên trong xu thế hội nhập hiện nay, cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực đời sống, tiếng Việt cũng có nhiều thay đổi. Đặc biệt là hiện tượng từ “lạ” xuất hiện ngày càng nhiều. Nhận xét về hiện tượng này có người cho rằng đó là sự “sáng tạo” làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, là hiện tượng bình thường, “dễ thương” và không nên từ chối. Không thể phủ nhận một thực tế rằng, trước sự phát triển năng động của cuộc sống, tiếng Việt cũng phải mở rộng, phải phát triển vốn từ để đáp ứng nhu cầu sử dụng. Và bằng nhiều cách như vay mượn yếu tố ngôn ngữ nước ngoài hay sự sáng tạo từ những yếu tố tiếng Việt đã có, chúng ta đã tạo ra nhiều từ ngữ mới chuẩn xác, tinh tế làm cho tiếng Việt thêm giàu và đẹp. Ví dụ như “ngân hàng đề thi”, “toàn cầu hóa”, “tăng trưởng nóng”, “siêu tốc” hay “tuổi teen”.... Nhưng sự mới lạ không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với cái tích cực, đúng đắn. Sự tăng trưởng “nóng” của tiếng Việt trong thời gian gần đây đang thể hiện những yếu tố tiêu cực. Chúng ta không thể không bất ngờ, ngạc nhiên đến băn khoăn, day dứt khi đọc được những dòng chữ “tiếng Việt” của thế hệ 8x, 9x hiện nay như “Pan co koe ko?”, “Pan dag lam j?”, “Pan nâu mam ckua?”. Không chỉ dừng lại ở việc nhắn tin qua điện thoại cho bạn bè, cho người cùng trang lứa mà nhiều khi các em còn sử dụng kiểu viết ấy để giao tiếp với cả anh chị, bố mẹ, thầy cô giáo...Ngoài ra do thói quen sử dụng nên một số học sinh đưa những từ lạ vào cả vở ghi thậm chí cả những bài kiểm tra, bài thi ....
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, việc các em sử dụng các kí hiệu đơn giản là không sai. Nhưng điều đáng nói, các em đã nhầm lẫn khi biến nó thành những kí hiệu chung để nói và viết ở mọi lúc, mọi nơi. Có thể nói đây chính là sự “sáng tạo” tiếng Việt một cách kì quặc, quái dị, khác thường. Nó không chỉ làm cho tiếng Việt mất đi sự trong sáng mà còn là những hành động đi ngược lại với đạo lí truyền thống, với thuần phong mỹ tục, làm mất đi đặc sắc của văn hóa dân tộc. Nó chính là yếu tố góp phần không nhỏ tạo nên sự hỗn loạn, “ô nhiễm” trong đời sống ngôn ngữ.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến việc sử dụng ngôn ngữ một cách kì quặc, quái dị của một bộ phận không nhỏ học sinh hiện nay:
-Thứ nhất: do sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt không được coi trọng
-Thứ hai: do xu hướng lai căng, xính ngoại, thích “hiện đại”, thích được thể hiện cá tính của giới trẻ
-Thứ ba: do sự thiếu hụt những tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng
-Thứ tư: do cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không nhỏ học sinh như: nói tục, chửi bậy, dùng từ, đặt câu không đúng nghĩa, không phù hợp với hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp ...
-Thứ năm: do việc tiếp xúc thường xuyên với cách sử dụng ngôn ngữ một cách tùy tiện của những bài viết không chuẩn mực trên mạng...
Từ những thực trạng và nguyên nhân sử dụng tiếng Việt như trên, chúng tôi với góc độ là giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường xin được đưa ra một số giải pháp nhằm giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay như sau:
-Trước tiên, chúng ta phải giáo dục để mỗi học sinh hiểu rõ, nắm vững những kiến thức cơ bản của Tiếng Việt. Từ đó giúp các em nhận thức được đâu là chuẩn mực của ngôn ngữ. Đồng thời kịp thời uấn nắn, điều chỉnh những lời nói lệch chuẩn của các em, bởi từ lời nói lệch chuẩn ấy sẽ dẫn các em tới những tư duy và hành vi lệch lạc, sai trái
-Thường xuyên chú ý đến việc viết đúng chuẩn tiếng Việt trong đó có viết đúng chính tả
-Cần xây dựng trong nhà trường phong trào giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt để học sinh tìm hiểu, trau dồi và làm theo những quy chuẩn của tiếng Việt. Việc giáo dục cần bắt nguồn từ thực tế, từ những câu chuyện, những tình huống thật xảy ra trong cuộc sống .
-Với môn Ngữ văn, có thể xây dựng thành những đề văn nghị luận xã hội về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ của chính học sinh. Từ đó các em được trình bày sự hiểu biết và những suy nghĩ của bản thân về việc sử dụng tiếng Việt của chính mình.
-Ngoài ra cần phối hợp với gia đình trong việc giáo dục và kiểm soát để kịp thời uấn nắn học sinh trong từng lời ăn tiếng nói hàng ngày. Các em cần phải thấy, sống trên đất nước mình, mọi người phải cảm thấy hổ thẹn khi lỡ miệng nói ra một thứ ngôn ngữ pha tạp, kì quái không còn là thứ Tiếng Việt mà ông cha ta để lại.
Tóm lại, sống trong thời đại “bùng nổ” thông tin và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế hện nay, nhu cầu phát triển vốn từ vựng cũng như cách diễn đạt của Tiếng Việt là một xu thế tất yếu khách quan. Tuy nhiên chúng ta cần có những định hướng đúng đắn để trong quá trình sử dụng Tiếng Việt không làm mất đi bản sắc vốn có của ngôn ngữ dân tộc. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Và như thế việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt là trách nhiệm không của riêng ai mà trong đó có các cơ quan quản lí nhà nước về lĩnh vực này, của mọi công dân Việt Nam và trước hết là các nhà ngôn ngữ học, các nhà văn, nhà báo và các thầy giáo cô giáo như mỗi chúng ta.