Học tại trường Chưa có thông tin
Đến từ Đồng Nai , Chưa có thông tin
Số lượng câu hỏi 15
Số lượng câu trả lời 104
Điểm GP 8
Điểm SP 80

Người theo dõi (19)

VH
NT
H24
OS

Đang theo dõi (3)

LP
EC

Câu trả lời:

Cho mình xin lỗi nhékhocroi! Nhưng mình có vài thông tin dành cho bạn đây!leuleu

Những “nỗi oan” của Triệu Đà

19 Replies

Trong sử Việt có lẽ không có vị đế vương nào lại phải chịu tiếng oan ức như Triệu Vũ Đế. Oan không phải vì những gì Triệu Vũ Đế đã làm, mà vì các sử gia Việt mắt mờ, bị sử Tàu đánh tráo khái niệm, đánh tráo thời gian, biến một vị đế vương oai hùng đầu tiên của nước Nam người Việt thành một người Tàu xâm lược, thâm độc…

NỖI OAN THỨ NHẤT: TRIỆU ĐÀ LÀ NGƯỜI PHƯƠNG BẮC
Sử ký Tư Mã Thiên chép: Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Thông tin thư tịch chỉ có vậy, thế mà không biết căn cứ vào đâu sách vở lại chú thích huyện Chân Định đời Tần “nay là” huyện Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc??? Triệu Đà bị biến thành người nước Triệu thời Chiến Quốc, quê gốc Hà Bắc.
Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép: Năm thứ 33 Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, cho những người bị đày đến đấy canh giữ. Ở phía Tây Bắc đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 34 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giã xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện.
Cùng năm Tần đánh Việt thì Mông Điềm mới vượt sông Hoàng Hà đánh Hung Nô và người Nhung, lập các huyện mới. Vậy đất Hà Bắc, tức là Bắc sông Hoàng Hà, tới lúc này mới lọt vào tay Tần, lấy đâu ra ông Triệu Đà người Hà Bắc lại cùng năm đó làm tướng Tần đánh Việt được?
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Như vậy thời kỳ này đất Giao Chỉ đã nằm trong đất nhà Tần. Huyện Chân Định hoàn toàn có thể nằm ở chính Giao Chỉ chứ không đâu xa. Sự thật thì huyện Chân Định thời Tần là ở đất Thái Bình ngày nay. Chân Định là tên cũ của huyện Kiến Xương, mãi tới thời Thành Thái (1889) mới đổi là huyện Trực Định phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Huyện Kiến Xương nay còn di tích là đền Đồng Xâm tại xã Hồng Thái thờ Triệu Vũ Đế, là bằng chứng rõ ràng rằng Chân Định của Triệu Đà là ở đất Thái Bình chứ không hề ở Hà Bắc, Trung Quốc. Tại Đồng Xâm Triệu Vũ Đế lấy vợ là Hoàng hậu Trình Thị. Như vậy Triệu Đà là người Việt chính gốc, chứ chẳng phải Tần hay Triệu nào ở tận Bắc Hoàng Hà.

Dong Xam

Đền thờ Triệu Vũ Đế ở Đồng Xâm, Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình.

NỖI OAN THỨ HAI: TRIỆU ĐÀ DẪN QUÂN TẦN XÂM LƯỢC VIỆT
Nỗi oan giời thấu thứ hai là Triệu Đà bị coi là kẻ xâm lược, đã cầm đầu quân Tần đánh Việt. Gọi là oan vì lần tìm hết các thư tịch cũ đều không hề có sách nào cho biết Triệu Đà đã cầm đầu quân Tần. Chỉ có trong Hoài Nam Tử có đoạn: [Nhà Tần] sai Úy Đà Đồ Thư đem lâu thuyền xuống Nam đánh Bách Việt. Cụm từ “Úy Đà” ở đây bị hiểu thành Triệu Đà. Hóa thành Triệu Đà cùng Đồ Thư đã dẫn quân xuống phương Nam.
Úy Đà là chức vụ của tướng Đồ Thư, với nghĩa như Đô Úy, tức là tướng thống lĩnh quân đội. Úy Đà biến thành tên riêng Triệu Đà dẫn đến nỗi oan chữ nghĩa khó giải của Triệu Vũ Đế.
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ chép: Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải. Nếu Triệu Đà là tướng cùng Đồ Thư dẫn mấy chục vạn quân đánh Việt thì sao lại chỉ được làm một huyện lệnh nhỏ nhoi ở Nam Hải?
Huyện Long Xuyên nay là Long Biên, nơi còn đình đền thờ Triệu Vũ Đế tại xã Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên). Theo sự tích ở đình Xuân Quan thì Triệu Vũ Đế khi đi qua bến sông này đã thấy rồng bay lên nên sau nhân đó đặt tên là … Thăng Long. Đình Xuân Quan được xây trên hành cung cũ của Triệu Vũ Đế, có tên là điện Long Hưng.
Thiên Nam ngữ lục thì chép về Triệu Đà:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng
Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng
Long Biên thành hiệu Thăng Long
Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.

Triệu Vũ Đế lấy vợ ở đất Chân Định (Kiến Xương – Thái Bình), khởi nghĩa kháng Tần từ đất Long Biên (Thăng Long), hoàn toàn không phải kẻ xâm lược, dẫn quân Tần đánh Việt.

NỖI OAN THỨ BA: TRIỆU ĐÀ LỪA LẤY LẪY NỎ THẦN VÀ DIỆT AN DƯƠNG VƯƠNG
Triệu Đà bị coi là kẻ thâm độc, xâm lược nước ta vì truyền thuyết Việt kể Triệu Đà sau khi đánh An Dương Vương không được, phải giả vờ xin hòa, cho con là Trọng Thủy xin cưới công chúa Mỵ Châu của An Dương Vương và xin ở rể. Trọng Thủy nhân cơ hội đánh tráo lẫy nỏ thần của nước Âu Lạc, rồi tìm cách về nước, dẫn quân sang, đuổi An Dương Vương cùng đường mà phải chém Mỵ Châu và đi vào biển…
Một lần nữa các sử gia Việt đã lấy truyền thuyết ghép nối vào lịch sử, nhưng ghép theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia. Thư tịch Trung Hoa không hề có chỗ nào ghi Triệu Đà đánh An Dương Vương cả. Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ ghi: Cao Hậu mất,… Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình.
Nếu Triệu Đà là người cầm quân Tần đánh Việt từ năm Tần Thủy Hoàng thứ 33 (214 TCN), lập ra quận huyện đầy đủ rồi, thì làm gì còn An Dương Vương và nước Âu Lạc nào sau đó nữa để mà Triệu Đà phải dụng tâm, khổ kể như vậy?
Các sử gia cho rằng Triệu Đà đã dùng phương sách “Hòa tập Bách Việt”, lấy vợ Việt, cho con trai mình lấy con gái vua Việt để dễ bề cai trị người Việt. Nhưng tất cả chỉ là chuyện kể trong truyền thuyết mà không có sử liệu nào cho biết rằng Triệu Đà đã đánh diệt An Dương Vương. Thậm chí truyền thuyết của người Choang ở Quảng Tây lại kể Trọng Thủy là hoàng tử của nước Tây Âu, cầm gươm “Hòa tập Bách Việt” sang nước Lạc Việt… Trọng Thủy ở đây không phải con của Triệu Đà.
Chuyện Trọng Thủy của nước Tây Âu đánh Lạc Việt đúng ra là chuyện Tần đánh Việt năm 257 TCN. Tây Âu ở đây là Tần. Trọng Thủy là con vua Tần. Nhà Tần còn mang họ Triệu như Tần Thủy Hoàng có tên Triệu Chính, lấy theo họ mẹ là Triệu Cơ. Sự trùng hợp này đã dẫn đến sự hiểu nhầm oan ức rằng Triệu Đà đã phái con sang do thám nước Việt và diệt An Dương Vương.
Bài thơ Khối tình con của Tản Đà nói đến chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy:

Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương.

Mỵ Châu là Việt thì Trọng Thủy là Tần, chứ không phải Triệu. Không phải Triệu Đà đã đánh An Dương Vương, mà là Tần Triệu đã thực hiện chính sách “hòa tập Bách Việt”, lập quận huyện ở trên đất Việt, di dời hàng vạn hộ dân xuống nơi đây.

NỖI OAN THỨ TƯ: TRIỆU ĐÀ TRỊ VÌ 70 NĂM, THỌ 121 TUỔI
Chính vì “Hội nhà sử” ngày nay quá tin vào những chú dẫn “đểu” của sử Tàu mà không suy xét nên Triệu Đà mới thọ đến 121 tuổi, làm vua 70 năm (từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN). Chỉ với tuổi thọ này cũng đủ thấy “nỗi oan” của Triệu Đà to như cái đình mà vẫn được các “học giả” tin sái cổ.
Khi đọc kỹ Sử ký Tư Mã Thiên sẽ thấy có 2 lần Triệu Đà xưng vương. Lần thứ nhất là vào năm Tần Nhị Thế thứ hai (207 TCN) Triệu Đà chiếm lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt trước đó (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải) và tự lập làm Nam Việt Vũ Vương. Lần thứ hai là sau khi Cao Hậu (Lữ Hậu) mất năm 180 TCN Đà uy hiếp Mân Việt và Tây Âu, tự tôn là Nam Việt Vũ Đế.
Theo vậy hóa ra Tây Âu Lạc thì không nằm trong 3 quận mà Tần đã chiếm (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải)? Điều này vô lý vì sách Hoài Nam tử cho biết: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống đã bị Giám Lộc, Đồ Thư giết thì sao mãi tới thời Tây Hán vẫn còn Tây Âu?
Tuổi thọ “xưa nay”… không có của Triệu Đà cùng với 2 lần xưng vương và sự vô lý về vị trí nước Tây Âu cho thấy, từ năm 207 TCN đến 137 TCN ít nhất phải có 2 nhân vật, cùng được gọi là Triệu Đà. Triệu Đà thứ nhất là người đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần, giành lại đất đai của người Việt mà Tần lập quận huyện trước đó vào năm Tần Nhị Thế thứ ba (207 TCN). Còn Triệu Đà thứ hai nổi lên sau sự kiện Lữ Hậu mất (180 TCN), “mua chuộc” Mân Việt và Tây Âu theo mình. Nói cách khác một Triệu Đà chống Tần, còn một Triệu Đà chống Hán.

Luong lap

Cột nghi môn điện Long Hưng ở Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên.

Câu đối ở điện Long Hưng, Xuân Quan nơi thờ Triệu Vũ Đế:
一指已無秦萬里開先閩貉絶
两立何難漢億年倡始帝王基
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một vùng vắng bóng Tần, vạn dặm mở ra vời xa Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, ngàn năm gây nền vững vàng đế vương.
Triệu Đà thứ hai là cháu Triệu Đà thứ nhất và có “mồ mả cha mẹ” ở phương Bắc đúng như Sử ký đã chép. Triệu Đà thứ hai có tên… Triệu Hồ, bởi vì Triệu Hồ không phải Triệu Văn Đế như sử vẫn chép. Chứng cứ rõ ràng là ngôi mộ vua Triệu mới phát hiện ở Quảng Đông vào những năm 1980. Trong mộ có ghi tên Triệu Mạt (hay Muội) và ấn vàng Văn đế hành tỉ (文帝行璽 ), nhưng lại còn có ấn vàng Thái tử (泰子). Như vậy người được chôn ở trong mộ là Văn Đế nước Nam Việt nhưng không phải Triệu Hồ vì Triệu Hồ là hàng cháu của Triệu Đà, không thể có chức Thái tử.

An Trieu Muoi

Ấn “Thái tử”, Ấn “Văn đế hành tỷ” ở mộ Triệu Muội tại Quảng Châu (ảnh theo Nguyễn Lương).

Với bằng chứng khảo cổ và minh văn phát hiện trong mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Đông thế thứ nhà Triệu Nam Việt trở nên rành mạch:
– 207 TCN đến 180 TCN: Vũ Vương Triệu Đà
– 180 TCN đến 137 TCN: Vũ Đế Triệu Hồ
– 137 TCN đến 124 TCN: Văn Đế Triệu Muội
– 124 TCN đến 113 TCN: Minh Vương Triệu Anh Tề
– 113 TCN đến 112 TCN: Ai Vương Triệu Hưng
– 112 TCN đến 111 TCN: Vệ Dương Vương Triệu Kiến Đức.
“Nỗi oan” 121 tuổi, 70 năm trị vì của Triệu Đà nay coi như được giải với 2 đời vua Triệu Vũ Hoàng kế tiếp nhau. Nhưng còn những nỗi oan vì sự vô lý của các sử gia đối với sử Việt thì chắc phải chờ thời gian soi xét…

Câu trả lời:

 

Một chiều đạp xe lang thang dọc con phố nhỏ thân quen, ngước nhìn vòm xanh cổ thụ tôi chợt nhận ra những đốm sáng lạ lùng - những chùm hoa xà cừ sắc vàng non rung rinh trong gió. Xà cừ ra hoa. Tôi thốt lên như một phát hiện diệu kì. Giữa nhịp sống đô thành hối hả người ta đã quên mất sự có mặt của loài hoa ấy. Cũng nở rộ khi mùa hạ đến, không đỏ chói như màu hoa phượng, chẳng lung linh như sắc tím bằng lăng, hoa xà cừ như cô thiếu nữ e lệ mang chút duyên thầm đồng nội. Phải chăng biết phận của mình, hoa lặng lẽ ẩn vào vòm lá. Nụ hoa xanh mướt như chồi non mới nhú, lớn hơn một chút tròn vo giống những hạt tấm lớn. Phải tinh mắt lắm mới nhận ra những bông hoa vàng nhạt li ti đính liên tiếp nhau thành một chuỗi tựa như những chùm hoa ngâu hay hoa dâu da xoan. Mỗi bông xà cừ xòe ra bốn cánh mỏng bao lấy nhụy vàng tươi, chỗ gốc nhụy pha sắc tím đỏ. Nơi phố thị, bách thảo đua hương, ganh sắc, hiếm có loại hoa nào khiêm nhường như xà cừ. Cây âm thầm chắt chiu màu nắng cả bốn mùa để đến hẹn cho hoa vàng nở rộ, đầy khắp các đầu cành. Hương thơm thoang thoảng khắp không gian, cho đến một chiều gió bứt những cánh hoa rắc vàng trên hè phố.

Chẳng biết hàng xà cừ xanh có mặt dọc những con đường tự bao giờ…? Cây là chiếc ô xanh khổng lồ che nắng hè rát bỏng, là “chiếc phong cầm vĩ đại” là “nhà nghệ sĩ mù lòa của phố phường” - cây xà cừ có tiếng ve, tiếng gió rì rào. Với chùm hoa vàng nhỏ li ti, cây là bà mẹ dịu hiền vươn những chiếc lá bầu dục xanh mềm như những ngón tay vuốt ve, nựng nịu. Một sớm mai thức dậy, ta ngỡ ngàng bởi góc phố nhỏ bỗng trỏ thành bức tranh vàng nhạt, những cánh hoa mỏng manh cứ xôn xao theo bước chân người.Xà cừ trút lá vào mùa xuân, lúc vạn vật đang đâm chồi, nảy lộc. Những ngày xuân muộn, gió lành lạnh, mưa bụi như rây, ngắm chút lá vàng xà cừ chao liệng thấy lòng mình bâng khuâng như gặp lại mùa thu đâu đây. Xà cừ thay lá chỉ một hai tuần, khi chiếc lá vàng cuối cùng rụng xuống thì trên những cành cây to lớn kia chồi non đã giăng đầy.Không đi vào trang sách học trò, chẳng hiện hình trong những câu thơ, cây xà cừ âm thầm thực hiện cho tròn đầy quá trình đơm hoa, kết trái. Quả xà cừ to như vốc tay, tròn như quả bóng bàn đung đưa. Quả già rụng xuống nếu không vỡ làm ba bốn mảnh thì lại lăn dọc theo lối đi tựa trái phi lao ngoài biển. Ngày bé, anh em tôi thường nhặt những quả lành lặn đem về chơi chuyền, chơi chắt hoặc xếp trên những lan can giả trò buôn bán. Quả xà cừ xù xì, màu nâu xám giống quả hồng xiêm nhưng rắn cấc. Tôi luôn tự hỏi: chẳng hiểu sao từ những bông hoa nhỏ xíu, mỏng manh hôm nay lại kết thành những quả rắn lạ lùng đến thế …?Thành phố ngày càng vươn cao theo những công trình, sẽ trống vắng và buồn biết mấy nếu thiếu đi những vòm xà cừ cổ thụ. Trẻ em bây giờ bị cuốn theo trò chơi điện tử cùng những thời gian biểu kín mít, chẳng còn hứng thú với những trò chơi dân gian xưa, và với các em quả xà cừ, hoa xà cừ càng trở nên xa lạ. Quả ấy không ăn được, hoa ấy không ngắm được, chúng sinh ra âm thầm và cũng lặng lẽ theo nhịp chổi của những người lao công tập trung về một nơi nào đó, xa lắm…Mỗi khi không gian rộn rã tiếng ve, ngoài kia dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy dưới trưa hè rừng rực lửa thì trong phố xà cừ lại bung ra những chùm hoa vàng như nắng. Chắt chiu từ thân mẹ xù xì, thô kệch những chùm hoa sao mà thân thương, dịu dàng đến lạ kì. Mỗi sớm tinh sương hay đêm khuya thanh vắng, lúc tâm hồn lắng lại sau những lo toan, tính toán đời thường, thả bước thong dong trên con phố xà cừ để cảm nhận hương thơm thoảng đưa trong gió, ta chợt thấy lòng mình yên tĩnh và thanh thản biết bao. Chỉ một lần thôi, bạn hãy thử trò chuyện với loài hoa bình dị ấy - hoa xà cừ…

Câu trả lời:

Nhờ vào danh hiệu Học sinh giỏi của tôi năm ngóai mà giờ bố mẹ đã thưởng cho tôi một chuyến đi đến bãi biển Vũng Tàu diễm lệ và xinh đẹp.Hôm ấy, tôi không thể nào diễn tả được cảm xúc của mình: vừa vui mừng, vừa tự hào vì đây là phần thưởng tôi đạt được vì học tốt. A! Xe taxi đến rồi!

Ngồi trên xe, ngắm đường phố vào sáng sớm, tôi thấy thành phố nơi tôi ở sao mà đẹp thế! Hai bên đường trồng hai hàng cây xanh mát tươi tốt, thẳng tắp như những chú bộ đội đang đi diễu hành…Woa! Cuối cùng chúng tôi cũng đã đến biển rồi đây sao?!? Biển Vũng Tàu mơ mộng nhưng cũng tràn đầy sức sống đã làm tôi đứng mê mẫn nãy giờ. Ôi! cái mùi măn mặn trong làn gió thổi nhẹ qua làn tóc của tôi cũng đủ cho tôi cảm thấy sung sướng rồi! Khi gia đình tôi nhận phòng, tôi nhìn từ cửa sổ tầng năm mà thấy sao Vũng Tàu hùng vĩ, xinh đẹp thế này! Hôm nay trời thật đẹp, bầu trời trong vắt một màu xanh, không một gợn mây. Có một vài con chim biển đang bay lượn trên trời như muốn nhập bọn với những trò vui của du khách nơi đây! Mặt trời trông như quả bóng lửa rực rỡ giữa một màu xanh trong veo. Khi bố mẹ bảo tôi có thể xuống bãi rồi, tôi mừng rỡ chạy nhanh như gặp phải vàng, tôi đã mong chời giây ohút này lâu lắm rồi! Khi tôi bước xuống làn cát mềm mịn, tôi cảm giác như mình đang đứng trên một tấm thảm màu vàng nhạt bằng nhung vậy! Qua bờ cát mịn một chút là đã chạm những ngọn sóng tràn bờ vấy lên chân. Những ngọn sóng nghịch ngợm từng đợt vỗ đến chân tôi. Nứơc biển mát thật đấy! Tôi thấy biển như một tấm gương khổng lồ phản chiếu lại hình ảnh của bầu trời. Hình như tôi đạp phải thứ gì đó! A! Là những chiếc vỏ ốc. Nhìn chúng đọng nước biển, lấp lành dưới ánh nắng mặt trời đẹp thật! Cái màu trắng ngà, cái màu đo đỏ, cái màu hồng nhạt,… Nhìn khắp bãi, ngòai vỏ ốc còn có các chiếc dù đủ màu nhìn sống động như có những cây kẹo mút khổng lồ vậy!

Các du khách ở đây đa số là người nước ngòai, họ rất vui vẻ và thân thiện. Họ chơi những trò chơi thể thao, trông rất vui, như: bóng chuyền,… Nếu đã nói đến biển, người ta sẽ nghĩ ngay đến hải sản. Vì thế đến biển Vũng Tàu mà không ăn hải sản thì uổng lắm! Bố dẫn tôi và gia đình vào một tiệm bình dân trên bãi để ăn: nghêu, tôm, mực, cua,… Ngon quá! Đã xế chiều, gia đình tôi về khách sạn để nghỉ ngơi và chuẩn bị hành lí đi về. Nhìn ra ngòai, tôi thấy một bầu trời ửng đỏ. Mẹ tôi bảo đấy là trời đang nấu cơm. Khác với buổi sáng, trời vào hòang hôn trên biển có vài đám mây đủ màu trôi bồng bềnh. Trông chúng như những cây kẹo bông gòn màu sắc mà mẹ mua cho tôi khi tôi còn nhỏ. Biển thì phẳng lặng, trầm tính hơn biển vào sáng. Trển bãi cũng ít người tắm vì họ cũng như chúng tôi, đều về nghỉ ngơi cả rồi… Đã đến giờ chúng tôi phải về. Trước khi lên xe, tôi nhìn biển và cảm thấy cảm kích vì đất nước Việt Nam đã có những danh lam thắng cảnh trong đó có nơi tôi đang nghỉ mát- biển Vũng Tàu.

Tôi sẽ cố gắng học tốt để bố mẹ cho tôi đến đây một lần nữa để tôi có thể thưởng thức bầu không gian hùng vĩ. Hình ảnh bãi biển Vũng Tàu đẹp như tranh và đầy sức sống này sẽ mãi mãi in sâu vào trái tim cũng như tâm hồn tôi như một kỉ miệm đẹp và đáng nhớ trong kì nghỉ hè năm lớp Sáu. Hẹn gặp lại năm sau đấy, Vũng Tàu ơi!

mình chỉ làm được như vậy thôi!oaoa

Câu trả lời:

Câu 1:

Xanh: TL: xanh xanh; TG: xanh rì

Đỏ: TL: đo đỏ; TG: đỏ thắm

Trắng: TL: trăng trắng; TG: trắng xóa

Vàng: TL: vàng vàng; TG: vàng xuộm

Đen: TL: đen đen; TG: đen xì

Câu 3:

a) Đêm ấy /, bên bếp lửa hồng /, cả nhà / ngồi luộc bánh chưng, trò chuyện đến TN TN CN VN

sáng.

b) Trong rừng /, tiếng suối chảy / róc rách, tiếng chim hót / líu lo.

TN CN VN CN VN

Câu 5: Bài làm

Sau khi bố tui mất, mẹ đưa tui về ở với bà ngoại. Năm đó, tui lên học lớp Ba. Bà ngoại là công nhân nhà máy dệt, về hưu đã gần 20 năm. Mẹ tui là công nhân của Công ty công viên thị xã, mẹ thường đi làm từ sáng sớm đến tối mịt mới về.

Ở gần nhà bà ngoại cũng có trường tiểu học, nhưng vì tui là học sinh ngoại tuyến nên phải đi học xa, cách nhà bà đến hơn hai cây số. Nhiều hôm trời mưa gió, tui còn nhỏ nên đi học thật vất vả. Mẹ vẫn an ủi động viên : “Hoàn cảnh gia đình ta có nhiều khó khăn, con cố gắng, mẹ con ta cố gắng.”. Nghe mẹ nói, nước mắt mẹ chảy ra, tui thương mẹ, thương bà lắm. Học kì I lớp Ba, tui đã phấn đấu trở thành học sinh giỏi.

Sáng chủ nhật hôm ấy, tui đang ngồi học bài thì cô bạn hàng xóm sang chơi. Đã nhiều lần gặp nhau, nhưng tui rụt rè không dám làm quen bắt chuyện. Người bạn mới cao hơn tui nửa cái đầu, gương mặt bầu bĩnh , nước da trắng mịn màng. Đôi bàn tay búp măng, bạn giở từng trang vở của tôi, nheo mắt cười, nói :Chữ viết cậu đẹp quá !”

Tuổi thơ vốn hồn nhiên. Bạn tự giới thiệu họ tên mình là Lê Thị Hương Lan , rồi thầm thì hỏi : “Đằng nớ tên gì?”. Nghe tui nói, bạn nhắc lại tên tui : “Nguyễn Thị Quỳnh”. Chúng tui cùng rúc rích cười…

Sau đó, hầu như chủ nhật nào Hương Lan cũng sang nhà tui chơi, lúc nói chuyện vui, lúc trao đổi về các bài tập Tiếng Việt, bài toán khó. Mấy lần Hương Lan mời tui sang nhà bạn chơi, nhưng tui chỉ hứa và khất. Hoàn cảnh cùng kiệt khó, thiếu thốn nên mẹ dặn : “Không được thấy người sang bắt quàng làm họ”. Bố mẹ Lan đều dạy học : bố dạy Toán trường Trung học cơ sở Chu Văn An, mẹ là Hiệu phó trường Tiểu học Kim Đồng. Ngày 1-6, tui ở trường về thì đã thấy bố mẹ Lan đang ngồi nói chuyện trong nhà với bà ngoại. tui cúi đầu chào.

-Cháu chào hai ông bà.

-Chào cháu. Cháu đi dự lễ 1-6 ở trường về à?

-Vâng ạ!

Bố mẹ Lan xem giấy khen và phần thưởng của tôi, rồi nói với bà : “Con bé ngoan và học giỏi. Thương nó vất vả quá !”… Ông bà cho tui một số món quà, có một bộ quần áo rất đẹp và sách vở , một cái ba-lô màu xanh đựng sách vở đi học , thứ mà tui hằng ao ước lâu nay. tui cảm ơn, tay run run nhận quà. Bà nhẹ nhàng vuốt mái tóc tui và nói : “Thỉnh thoảng cháu sang nhà bác chơi. Cháu và cái Lan cùng tuổi , cùng lớp đó…”

Chắc là Hương Lan đã nói với bố mẹ mình về hoàn cảnh của tui nên đã nhờ mẹ xin cho tui về học tại trường Tiểu học Kim Đồng, cách nhà bà độ nửa cây số. Mọi thủ tục giấy tờ chuyển trường, bố mẹ Lan đều làm cho tui cả.

Lớp Bốn, tui và Lan đều đạt danh hiệu học sinh giỏi và thi học sinh giỏi môn Toán toàn quận. Lan được giải Nhì, tui được giải Ba. Chúng tui trở thành đôi bạn thân. Bố mẹ Lan thương tui và coi tui như con cháu trong nhà.


Tui không còn phải đi học xa nữa. Những hôm mưa to gió lớn, tui lại bâng khuâng nhớ đến kỉ niệm buổi đầu gặp Hương Lan.