Đây là phiên bản do Nguyễn Trần Thành Đạt
đóng góp và sửa đổi vào 17 tháng 4 2021 lúc 5:32. Xem phiên bản hiện hành
Nội dung lý thuyết
Các phiên bản khácVỢ CHỒNG A PHỦ |
I. CÂU HỎI LUYỆN TẬP
Câu 1: Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Những nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện Vợ chồng A Phủ là:
-Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo không khí được diễn tả rất sinh động (Đoạn Pá Tra xử kiện hoặc đoạn A Sử hành hạ Mị, không cho đi chơi xuân).
-Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí và phát triển tính cách rất độc đáo. Các đoạn miêu tả tâm lí, tả tâm trạng của Mị đang sống về ngày trước thật thần tình. Mị có hai cuộc sống, một cuộc sống về ngày trước và một cuộc sống hiện tại song song đối lập nhau, tương phản nhau, đã cho thấy sức sống tiềm tàng của Mị.
-Giọng kể của Tô Hoài có nhiều chỗ nhập thân vào dòng tâm tư của nhân vật, làm nổi lên ý nghĩa tâm trạng và cả những trạng thái chập chờn của tiềm thức nhân vật.
-Tính cách gan góc, bộc trực của A Phủ lại được thể hiện qua nhiều hành động và những lời đối thoại ngắn gọn, giản đơn.
-Cách kể chuyện của Tô Hoài có thứ tự, lớp lang: từ xa đến gần, từ ngoài vào trong và ngòi bút của ông luôn chạm đến đến nỗi niềm sâu kín của nhân vật. Lời kể hòa với diễn tả tâm lí làm cho tâm tình của nhân vật như hiện lên trên trang giấy. Tác giả cũng khéo léo vận dụng các hình ảnh con trâu, con ngựa, con rùa nuôi trong xó cửa… làm cho người đọc hình dung ngay được số phận của nhân vật.
-Tô Hoài có một vốn ngôn ngữ phong phú, giàu tính sáng tạo. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông đã gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
-Lời văn uyển chuyển, khi mạnh mẽ, khi mềm mại, rất gợi cảm.
Câu 2: A Phủ và A Sử trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài có những hành động gì đáng chú ý? Nhận xét về hành động của hai nhân vật đó.
-A Phủ có 3 hành động đáng chú ý:
+Lê cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù; cúi sờ đồng bạc trên tráp… Thế là A Phủ nhận việc mang nợ nhà thống lí Pá Tra.
+Đứng lên, cầm con dao, chân đau bước tập tễnh, cùng với mấy trai làng, ra chọc tiết làm thịt lợn hầu làng.
+Lẳng lặng ra vác cái cọc gỗ rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự tay A Phủ đóng cái cọc gỗ xuống bên cột… Và, A Phủ bị thống lí Pá Tra cột chân vào cây cọc ấy.
-A Sử cũng có 3 hành động đáng chú ý:
+Thấy Mị định đi chơi xuân, sau câu hỏi: Mày muốn đi chơi à?, liền lấy thắt lưng trói hai tay Mị… trói đứng Mị vào cột nhà.
+A Sử bị thương, Mị lấy lá về chữa vết thương cho hắn. Mị mệt quá, gục thiếp đi, A Sử liền đạp chân vào mặt Mị.
+Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử liền đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp.
-Nhận xét về hành động của 2 nhân vật:
Những hành động của A Phủ và A Sử là những hành động chỉ có thể xảy ra trong xã hội cũ. A Phủ là một chàng trai có lòng tự trọng, khỏe mạnh nhưng sống giữa vòng dây của sự đè nén, của tập tục lạc hậu đã phải tự tay đi mổ heo (tức là phải nhận tội, chịu thân phận đi ở suốt đời cho nhà thống lí), A Phủ còn phải tự tay lấy cọc, lấy dây để bọn cường quyền độc ác trói mình vào cọc. Khác với sự cam chịu của A Phủ, A Sử là hiện thân của sự độc ác, mất nhân tính. Với A Sử, Mị chỉ là nơi để nó trút giận, đánh đập tàn nhẫn. Những hành động của A Sử đối với Mị, hay của A Phủ đối với bản thân mình, đã cho thấy sự áp bức, đè nén, áp chế con người trong xã hội cũ.
Câu 3: Nêu những chi tiết giống nhau và khác nhau giữa Mị và A Phủ? Sự giống nhau và khác nhau đó có giá trị như thế nào đối với truyện Vợ chồng A Phủ?
-Những chi tiết giống nhau giữa Mị và A Phủ là:
+Đều là những người lao động nghèo khổ, bị đè nén áp bức nặng nề dưới ách thống trị của bọn phong kiến cấu kết với thực dân Pháp.
+Là những người tài, sắc (Mị có tài thổi sáo, A Phủ có tài săn bắn), họ cũng là những người biết trân trọng những tập tục của bản làng.
-khác nhau:
+Mị sống lầm lũi, chịu đựng như con rùa lùi lũi nơi xó cửa…
+A Phủ sống sôi nổi, trung thực.
-Tuy có những điểm khác nhau về tính cách nhưng điều cơ bản là giữa Mị và A Phủ đều có những nét đồng điệu về tâm hồn. Đây cũng là cơ sở để họ giúp đỡ nhau và đến với nhau.
Câu 4: Trong truyện Vợ chồng A Phủ, đoạn Mị cứu A Phủ có một chi tiết rất đáng chú ý, đó là chi tiết nào? Vì sao?
Đó là chi tiết giọt nước mắt của A Phủ. Giọt nước mắt lấp lánh kia chính là giọt nước mắt cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị ra khỏi cõi quên để trở về cõi nhớ: Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. A Phủ, đúng hơn là giọt nưóc mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ mình, xót cho mình.
Và phải biết nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng, cũng đang khổ nỗi khổ của con người, mới có thể thấy có con người nào đó ở quanh mình cũng khổ giống như mình. Sự thương người không thể sinh ra khi sự thương mình còn chưa có. Đúng là từ lúc biết thương mình, Mị mới dần có tình thương đối với A Phủ, một người cùng cảnh ngộ.
Nhưng sự thương người, một khi đã xuất hiện thì cũng sẽ mãi lớn lên và đi đến chỗ lớn hơn cả sự thương mình. Đấy cũng là quy luật tất yếu của những tình cảm chân chính, nó sẽ sinh ra cái hạnh phúc được hi sinh. Ở đây cũng thế. Chuyển ý từ mình sang A Phủ, Mị dần dần phảng phất nghĩ: Ta là thân đàn bà… chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi nhưng còn người kia việc gì phải chết thế. Và hai tiếng A Phủ lần đầu tiên rung động trong lòng Mị, nhè nhẹ, nghe như hơi thở của tình thương… Song phải chờ đến khi Mị nghĩ: giá như có phải trói vào cọc thay cho A Phủ - giá như A Phủ đã trốn đi – thì làm sao Mị cũng không thấy sợ, phải đến lúc, phải đến lúc đó, Tô Hoài mới thực sự có cơ sở để Mị cầm dao cắt nút dây mây.
Như vậy, giọt nước mắt của A Phủ đã giúp Mị biết yêu thương, biết căm giận trước cái ác và quan trọng hơn Mị đã nhận thấy rằng cuộc đời không thể mãi chỉ làm con rùa nơi xó cửa.
II. ĐỀ BÀI LÀM VĂN
Đề 1: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
a)Mở bài:
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài, giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt
b)Thân bài:
+Giá trị hiện thực:
Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí, quan lang, những người đi làm dâu gạt nợ như Mị, đi ở trừ nợ như A Phủ cho thống lí chỉ là những kiếp trâu ngựa, khốn khổ, nhục nhã, ê chề. Bọn thống lí là một ông vua ở vùng cao, chúng có quyền sinh, quyền sát với dân Tây Bắc. Chúng có quyền bắt bớ, đánh đập, bắt làm nô lệ, gả bán, thậm chí có thể giết người cách dã man mà không sợ một thứ luật lệ nào trói buộc.
Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã mô tả được bức tranh toàn cảnh về giai cấp thống trị Tây Bắc – những con quỷ dữ hút máu người không tanh, giá trị hiện thực của tác phẩm thật đặc sắc.
Mị là con gái Hmông có nhan sắc, yêu đời, chăm chỉ, và có lòng hiếu thảo. Mị đã từng ước ao một cuộc sống hạnh phúc với chàng trai mà cô đem lòng yêu dấu. Nhưng tất cả chỉ là ước mơ, Mị phải về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra vì món nợ của bố mẹ hồi trẻ. Chuỗi ngày đau đớn, ê chề, nhục nhã của Mị cũng bắt đầu sau cái đêm bị A Sử cướp về làm vợ để trả nợ. Mị sống trong câm lặng. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Mị hiện lên không ở phía chân dung mà ở phía thân phận, một thân phận quá nghiệt ngã: người ngồi lẫn với đá, với chuồng ngựa, mặt cắm xuống không sao ngẩng lên được. Mị lặng lẽ như con rùa trong xó cửa, quanh năm chỉ biết vùi đầu vào công việc nặng nhọc: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì đi gặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm năm trời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc nghỉ, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc làm cả đêm, cả ngày. Thêm vào sự đày đọa về thể xác ấy, còn là sự đày đọa về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong một ý nghĩ: Bố con Pá Tra đã trình ma mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ thuốc phiện của tinh thần đối với dân bị áp bức nơi đây.
Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không chỉ dừng ở chỗ tố cáo những áp bức bóc lột của bọn thống lí, quan lang mà còn nói lên một sự thật chua xót về những con người đã biến mình thành trâu ngựa. Bị áp bức và nhẫn nhục chịu đựng kéo dài, Mị đã bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. Mị nghĩ: mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa từ nhà này đến nhà khác, con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Chính vì suy nghĩ như vậy, nên Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, Mị sống như một cái bóng, sống mà như đã chết, Mị phó mặc cuộc sống của mình cho định mệnh, không nghĩ gì về thân phận của mình nữa, thậm chí cũng không có ý thức về thời gian sống nữa. Cô không còn nhớ mình về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng có cái cửa sổ lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Với Mị, sự chuyển đổi của thời khắc sớm tối hay năm tháng đi qua cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, không hiện tại và chẳng có tương lai.
Đồng hành với cuộc đời tăm tối của Mị còn có A Phủ. A Phủ là một chàng trai Hmông khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa, săn bò tót rất giỏi. Các cô gái trong bản rất thích A Phủ, đứa nào lấy được A Phủ cũng bằng sắm được một con trâu tốt trong nhà. A Phủ cũng là một thanh niên yêu tự do, yêu công bằng và lẽ phải. Ngày Tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao, A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Thống lí bắt A Phủ đánh đập, hành hạ, phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có bạc nộp phạt nên đành phải làm nô lệ để trừ nợ. Thế là trong nhà thống lí Pá Tra có thêm một con người bất hạnh nữa làm tôi tớ. Mị làm tôi tớ trong nhà, A Phủ làm tôi tớ ngoài rừng. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ một mình ngoài rừng, làm đủ mọi việc: đốt nương, chăn bò, săn bò tót… chẳng may, một lần hổ động rừng, hổ xuống vồ mất một con bò. Thống lí đã bắt A Phủ trói đứng suốt ngày đêm ngoài trời.
Tất cả sự đày đọa về thân xác và tinh thần của giai cấp thống trị miền núi đối với người dân được Tô Hoài phản ánh sinh động và rõ nét. Thông qua số phận, cuộc đời của Mị và A Phủ, người đọc thấy được số phận bi thảm của thân phận con người dưới chế độ phong kiến man rợ Tây Bắc.
Nhưng Tô Hoài không dừng lại ở việc phản ánh bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất cuộc sống của các dân tộc vùng cao, phản ánh sức sống mãnh liệt của các dân tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của họ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+Giá trị nhân đạo:
Mị bị trói buộc, bị chà đạp nặng nề, nhưng trong sự câm lặng của Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Ngày Tết, khi tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ, trong Mị bừng lên khát vọng sống. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng và Mị đã lén lấy rượu uống, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say… Chính trong một tâm trạng được kích động bởi men rượu, bởi âm thanh náo nhiệt của ngày Tết, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay. Mị cảm thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn rất trẻ. Mị muốn đi chơi. Lòng ham sống trỗi dậy. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén bỗng trào lên, không thể dập tắt nổi nữa. Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút cái váy hoa… sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên, lạnh lùng trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa lại. Trong cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác của A Sử, ta thấy toát lên sự vô nhân tính của một kẻ đã đánh mất hết cả lương tri.
Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khát khao cháy bỏng và thực tại lạnh lùng, khắc nghiệt. Trong đoạn văn nói về những diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa xuân đó, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn, sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt phù hợp quy luật. Đấy là một đoạn văn miêu tả tâm lý khá sâu sắc và tinh tế của Tô Hoài và cũng thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch của những con người bị đày đọa đau khổ.
Ngòi bút thấm nhuần tinh thần nhân đạo của Tô Hoài không chỉ dừng lại ở cái đêm mùa xuân đó. Nhà văn còn tiến đến một bước cao hơn, một đột biến lớn hơn, đủ làm thay đổi một kiếp người, là vào một đêm mùa đông lạnh giá, khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị đã suy nghĩ: Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đến mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ cũng chính là tự cắt dây trói cho cuộc đời mình. Rồi cả hai cùng chạy lao xuống dốc núi, thoát khỏi kiếp làm trâu, làm ngựa một thời.
c)Kết bài:
Ngòi bút của Tô Hoài đã hết sức nâng niu từng diễn biến tâm lý, từng bước trỗi dậy trong tâm hồn Mị. Có thể nói Tô Hoài đã tái hiện chân thực và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tăm tối đến vươn lên hạnh phúc, ánh sáng của một thế hệ thanh niên dân tộc Hmông. Nhà văn đã biết đặt niềm tin vào người lao động, đã đứng về phía những người lao động miền núi – những con người đau khổ - để tố cáo chế độ giam hãm, đày đọa con người về tinh thần, thể xác, để khẳng định sức sống tiêu biểu của con người tiêu biểu là Mị với ngòi bút đẫm chất hiện thực và nhân đạo.
Đề 2: Qua truyện Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), phân tích diễn biến tâm trạng của Mị ở nhà thống lí Pá Tra, khi mùa xuân đến.
a)Mở bài:
Truyện Tây Bắc là tập truyện ngắn hay của Tô Hoài, trong đó, nổi bật truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm này đã thể hiện đặc sắc cuộc sống của đôi thanh niên nam nữ Mèo: Mị và A Phủ, trong suốt quá trình họ bị bọn phong kiến thực dân áp bức đến khi giác ngộ cách mạng. Những tư tưởng, tình cảm của họ, đặc biệt là của Mị, đã dược tác giả thể hiện rất đặc sắc trong tác phẩm, nhất là đoạn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị ở nhà Pá Tra khi mùa xuân đến.
b)Thân bài:
Mùa xuân đến. Mùa xuân đẹp nhất trong năm mang lại cho con người biết bao hi vọng, ước mơ, là mùa của lễ hội, của vui chơi, mùa của tình yêu. Tuy nhiên, sống trong nhà thống lí Pá Tra với tư cách là con dâu gạt nợ, làm việc quần quật như sức nô, Mị không có quyền vui chơi lễ hội. Nhưng những tiếng sáo gọi bạn, tiếng khèn đêm hội vẫn vang vọng đến căn buồng tăm tối của Mị, đánh thức Mị một tâm hồn khát khao sống tưởng đã chết lịm từ bao giờ.
Từ một tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vô vị như một cái máy, không có quá khứ, không có hiện tại và không có tương lai, Mị nghe tiếng sáo thiết tha gọi bạn mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy, Mị thổi sáo giỏi. Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo đến nỗi biết bao trai bản mê đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Tiếng sáo đó giúp Mị nhận ra một điều tưởng như đã chìm vào quên lãng, rằng ngày xưa Mị là một cô gái tài hoa, tươi trẻ, hồn nhiên và xinh đẹp, cũng làm say đắm lòng người. Thế mà bây giờ…
Tiết xuân, những âm thanh vui vẻ của đám hội và hồi tưởng về tuổi mộng mơ đã làm Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Đâu phải đánh thức một tâm hồn chai lì như vậy là để nếu không có mùa xuân với sức sống của đất trời, với những tình yêu đôi lứa và nếu như bản thân Mị không có sức sống tiềm tàng và mãnh liệt. Sức sống đó đã bị nhà thống lí Pá Tra bóp chết từ khi Mị bước chân về làm dâu, không để cho nó có cơ hội nào nhen nhóm lại. Bây giờ nó bắt đầu bùng lên khi Mị thấy yêu đời: Mị thấy lòng mình vui sướng lại. Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Nếu Mị đã tìm được niềm vui dù mơ hồ, Mị vẫn thấy tuổi trẻ của mình vẫn còn, Mị sẽ thấy thời gian quý giá và hưởng niềm vui một cách trọn vẹn chứ không buông trôi vô vị như ngày xưa nữa. Nếu như trước đó Mị hoàn toàn mờ mịt về thời gian, Mị không nhớ mình về đây từ lúc nào, đã được mấy năm, vì suốt tháng cứ đầu tắt mặt tối thì bây giờ Mị muốn được hưởng thú vui của tiết xuân. Những tiếng sáo thiết tha bồi hồi thúc giục Mị. Từ ý nghĩ mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, chỉ biết sống như con rùa lùi lũi trong xó cửa, thì giờ đây, Mị muốn có một cái quyền như bao nhiêu người khác: Mị muốn đi chơi. Có thể nói, đối với Mị, đây là một sự thay đổi lớn lao, tuy bắt nguồn từ những cảm xúc nhất thời nhưng chứng tỏ Mị vẫn còn là một con người. Hễ là con người thì cũng biết vui xuân, vui Tết, thổi sáo, ném pao, nhảy múa… như bao nhiêu người khác.
Chính sự thay đổi đó làm A Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn, Mị chẳng khác nào súc nô. Hành động trói Mị một cách tàn nhẫn của hắn chỉ giam giữ được thể xác Mị, song không thể giam giữ được tâm hồn Mị. Lòng Mị vẫn rập rờn tiếng sáo. Tai Mị vẫn lắng nghe tiếng sáo tỏ tình tha thiết từ bên ngoài vọng vào. Tâm hồn Mị bây giờ như chơi vơi trong mộng tưởng, vượt qua núi này đến núi nọ, trở về thời xa xưa của một hình bóng tươi tắn, tài hoa. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi nó kéo Mị về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc Mị phải nghĩ đến Mị, liệu Mị có duy trì được nó hay không. Mị đã sợ chết: Mị thử cựa mình, các dây trói xiết chặt lấy người đau như dứt từng mảnh thịt. Nhớ đến người chị dâu cũng bị trói chết. Mị sợ và một khi sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.
c)Kết bài:
Cuộc chơi xuân rồi cũng tàn nhưng sức sống của Mị đã được dịp trỗi dậy và chờ dịp bùng lên. Miêu tả một quá trình thay đổi như thế ở Mị thật khó khăn nhưng nhà văn Tô Hoài đã thành công, Ông đã thể hiện tâm lí của Mị thật hợp lí và đặc sắc, gợi cho người đọc sự xúc động và cảm thông sâu sắc. Qua đó, chúng ta cũng hiểu thêm về tâm hồn của thanh niên Mèo dưới sự áp bức tàn bạo của thực dân phong kiến vẫn ẩn chứa một tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
(Bùi Kim Bình)
Nguyễn Trần Thành Đạt đã đóng góp một phiên bản khác cho bài học này (17 tháng 4 2021 lúc 5:32) | 1 lượt thích |