Đồng chí- Chính Hữu

Nội dung lý thuyết

Các phiên bản khác
0
4 gp

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

- Chính Hữu, sinh năm 1926.

- Là nhà thơ quân đội.

- Quê Cam Lộc - Hà Tĩnh.

- 20 tuổi tòng quân, là chiến sĩ trung đoàn thủ đô.

- Đề tài viết chủ yếu về người chiến sĩ.

2. Tác phẩm

- Bài thơ ra đời năm 1948, trong tập “Đầu sung trăng treo” (1968).

- Chiến dịch Việt Bắc Thu - đông năm 1947, Chính Hữu cùng đơn vị tham gia chiến đấu, hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn, khó khăn, nhờ có tình đồng chí giúp họ vượt qua những khó khăn ấy.

- Lúc đầu đăng trên tờ báo của đại đội, sau đó đăng trên báo Sự thật (Báo Nhân dân ngày nay)

- Bài thơ được đồng chí Minh Quốc phổ nhạc. Tác giả viết bài thơ Đồng chí vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh.

* Hoàn cảnh sáng tác:

Chính Hữu cùng đơn vị tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (Thu - đông năm 1947). Trong chiên dịch ấy, cũng như những năm đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau chiến dịch Việt Bắc, Chính Hữu viết bài thơ Đồng chí vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh. Bài thơ là sự thể hiện những tình cảm tha thiết, sâu sắc của tác giả với những đồng đội, đồng chí của mình.

3. Bố cục

Bài thơ có thể chia thành 3 phần:

- 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí đồng đội.

- 10 câu tiếp: Biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí đồng đội.

- 3 câu cuối: biểu tượng của tình đồng chí.

@91460@

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Mạch cảm xúc

- Bài thơ theo thể tự do, có 20 dòng, chia làm hai đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn, sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm.

- Sáu dòng đồng có thể được xem là sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm giữa những người lính. Mười dòng tiếp theo, mạch cảm xúc lại dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó. Ba dòng thơ cuối được tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc "đầu súng trăng treo" như một biểu tượng giàu chất thơ về người lính. 

2. Khổ thơ 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí

- Tình đồng chí , đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó:

                                  Quê hương anh nước mặn, đồng chua

                                   Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

- Đó chính là cơ sở cùng chung giai cấp xuất thân của những người lính cách mạng. Chính điều đó cùng với mục đích, lí tưởng chung đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên thân quen nhau.

- Tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu".

- Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt, mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ".

- Sáu câu thơ này, nhà thơ hạ một dòng thơ đặc biệt với hai tiếng "Đồng chí!". Câu thơ chỉ có một từ với hai tiếng và dấu chấm than tạo một nốt nhấn, nó vang lên một sự phát hiện, một lời khẳng định, đồng thời lại như một cái bản lề gắn kết đạon đầu và đoạn thứ hai của bài thơ. Sáu câu ở trước hai tiếng ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội. Mười câu thơ tiếp theo là những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng chí giữa những người lính.

@91469@@91462@@91463@

3. Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội

- Từ dòng 8 đến dòng 17 của bài thơ là sự triển khai tiếp tục chủ đề  "tình đồng chí". Ở đây tác giả đưa ra thêm những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí, đồng đội của những người lính.

- Đồng chí, đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.

- Đồng chí, đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:

                              Áo anh rách vai

                              Quần tôi có vài mảnh vá

                               Miệng cười buốt giá

                               Chân không giày

- Và nhất là cùng trải qua những cơn "sốt run người vừng trán ướt mồ hôi" (những cơn sốt rét hành hạ người lính sống ở rừng).

- Để diễn tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau của mọi cảnh ngộ của người lính, tác giả xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau (từng cặp hoặc từng câu):

                   Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

                  Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

                  Áo anh rách vai 

                  Quần tôi có vài mảnh vá

                  Miệng cười buốt giá

                  Chân không giày 

- "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay" vừa nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng giữa những người lính vừa gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy. Dường như chỉ bằng một cử chỉ "tay nắm lấy bàn tay" mà những người lính như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ.

@91464@@91465@@91466@

4. 3 câu thơ cuối: Biểu tượng của tình đồng chí

- Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc: 

                     Đêm nay rừng hoang sương muối

                     Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

                     Đầu súng trăng treo.

- Trong bức tranh trên, nổi lên trên nền cảnh rừng bên giá rét là ba hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng.trong cảnh rừng hoang sương muối, những người lình phục kích, chờ giặc, đứng bên nhau. sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang mùa đông, suơng muối giá rét.

- Người lính trong cảnh phục kích giữa rừng khuya còn có một người bạn nữa, đó là vầng trăng. Đầu súng trăng treo là hình ảnh được nhận ra từ những đêm hành quân, phục kích của chính tác giả. Những hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi những liên tưởng phong phú. Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ...Đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng.Xa hơn, đó cũng có thể xem là biểu tượng cho thơ ca kháng chiến - nền thơ kết hợp chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.

- Về hình ảnh đầu súng trăng treo, Chính Hữu đã nói ra những suy nghĩ và ấn tượng của mình: " Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh, trong sự bát ngát.Nó nói lên một cách gì đó lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật.

@91466@

III.Tổng kết

1. Nghệ thuật

Từ ngữ, hình ảnh chân thực, gợi tả, cô đọng, hàm xúc, giàu sức khái quát, có ý nghĩa sâu sắc.

2. Nội dung

- Bài thơ ca ngợi tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, ấm áp của các anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

ĐỀ ÔN LUYỆN:

ĐỀ: Hóa thân vào vai người lính trong bài Đồng chí của Chính Hữu để kể lại bài thơ.

                                                       Bài làm:

+ MỞ BÀI:

                           “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi

                            Dù có gian nguy nhưng lòng không nề

                            Ra đi ra đi bảo tồn sông núi

                            Ra đi ra đi thà chớ chết lui…..”

Những giai điệu tự hào y vn mãi đi theo, hòa quyn vào dòng lch s thăng trm ca nhng năm kháng chiến chng Pháp ca nhân dân ta và với chương trình “Bài ca đi cùng năm tháng” – đây là một chương trình được Đài truyền hình Việt Nam (VTV) phát sóng vào lúc tám giờ mỗi tối thứ năm. cái đ tui khi mà con người ta chỉ thích nhàn rỗi hưởng thụ, tìm về lại cội nguồn của cuộc sống thì tôi lại thích xem lại về những ngày kháng chiến gian khổ của mình khi xưa – được tìm lại những cảm xúc thắm thiết giữa tôi cùng những anh em bằng hữu thân thiết. Vẫn như thường lệ, tối hôm y, vi chén trè nóng và vài miếng cu đơ nhà mi gi lên, tôi bt tivi. Đập vào trước mắt tôi bấy giờ là một khung cảnh vô cùng quen thuộc. Dù đã mấy chục năm trôi qua nhưng tôi vẫn không thể nào quên được – đấy chính là chiến khu Việt Bắc khi xưa. Nơi mà biết bao anh em của tôi đã ngã xuống – bị che phủ dưới lớp bụi của thời gian. Quá khứ như ùa về trong tâm trí tôi – về những ngày được cầm súng chiến đấu với những đồng chí khác – họ chính là những người anh em ruột thịt, thân thiết và gần gũi nht ca tôi.

       + THÂN BÀI:

               Chúng tôi đều là những người lính cụ Hồ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Những ngày đầu của cuộc kháng chiến thật sự rất khó khăn và nguy hiểm. Tiết trời đang vào mùa xuân, không khí bắt đầu chuyển lạnh, sương muối lạnh lẽo cộng với việc sống giữa núi rừng, hòa quyện với cây cỏ, không gian xung quang bao gi cũng mt màu xám xt, u ám. Ôi! Thi y sao mà kh thế! Nhưng với những người lính đã quen với cái nghèo từ trước đó như chúng tôi thì có sá chi cơ chứ.

             Trong những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi giữa chiến trường đầy bom đạn, chúng tôi thường tâm sự với nhau vê cảnh ngộ, quê hương và cuộc sống của mình.

-       Anh mô đến đây ra? Tôi hỏi.

-       Tôi t vùng đng bng ven bin nước mn đng chua, nơi chiêm trũng, đt nghèo, nhim phèn – mn rt khó làm ăn. Còn anh thì răng? Anh hi tôi.

-       Tôi t nơi đi núi trung du, đt đá khô cn, si đá, mt nơi mà “chó ăn đá, gà ăn si”.

Chúng tôi – những con người xa lạ, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, lam lũ, sống trong cái nghèo chung bấy giờ của đất nước trong cảnh nô lệ, chiến tranh. Chúng tôi đã tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu đã về đây họp thành đội quân – một đội quân nghèo nhưng lại m áp tình đng chí, đng đi. Mỗi người một vùng đất, một cuộc sống khác nhau, tưởng chng hn thế nhưng li có mt cái hn, đó chinh là cái hn ca lòng yêu nước, căm thù gic, ca nim khao khát mun dit gic đ gii phóng cho quê hương đt nước. Đó là một cái hẹn không lời – một cái hẹn không ai báo trước – một cái hẹn đã gắn kết biết bao người lại với nhau và điểm hẹn chính là hàng ngũ quân đội, là thao trường, là chi hướng diệt giặc quân thù, như nhà thơ Nguyễn Hồng – một đàn anh của tôi đã từng viết:

                                  “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ

                                    Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ

                                    Quen nhau từ thuở “một, hai”

                                     Súng bắn chưa quen

                                     Quân sự mươi bài

                                     Lòng vẫn cười vui kháng chiến…….”

Những con người chúng tôi – đầy xa lạ - nhưng lại trở nên thân thiết với nhau, điều đó không phải tự nhiên mà có. Đó là từ sự đồng cảm về xuất thân giai cp ca chúng tôi – nhng con người đã mang cái nghèo t đi sng vào chiến tranh, t lý tưởng sng và mc đích chúng cao c là gii phóng đt nước, t nhng nhim v, gian lao mà chúng tôi phi đi mt đã gắn kết chúng tôi lại với nhau. Trời càng về đêm, tình đồng chí của chúng tôi lại càng thể hiện rõ nét hơn. Những khi đi cạnh thì “súng bên súng”, đến khi chợp mắt thì “đầu sát bên đầu”. Những sự gần gũi cộng với những thứ “chung” và “cùng” đã làm cho sự gắn bó giữa anh em chúng tôi ngày càng sâu sắc, thân thiết hơn. Tình đồng chí, đồng đội ngày càng nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia s mi gian lao, thiếu thn. Đó là mi tình “tri k” keo sơn – gn kết khi mà đêm rét chung chăn đ ri thành nhng người tri k. Chính cái rét đã to nên cái ‘tình’ gia chúng tôi – gia hai anh lính chung chăn. Đ ri chúng tôi gi nhau bng hai t tuy ngn nhưng nghe sao mà xúc đng và tha thiết thế “Đng chí!”. Đó là tiếng gọi mộc mạc mà tha thiết, ngân vang như một âm hưởng, như một nốt nhấn trong bản đàn. Là sự kết tinh của mọi cảm xúc trong chúng tôi, khi mà tình đồng chí chính là cao độ của tình bạn, tình người…. Đó cũng là niềm động lực để thúc đẩy anh em chúng tôi cùng vượt qua những ngày gian khó này.

                  Bề ngoài là người cầm súng chiến đấu, không hề sợ hãi, đánh giặc vẫn thn nhiên nhưng thm sâu bên trong trái tim ca mi người li đang nhói lên nhng dòng cm xúc mãnh lit, đó là ni nh quê hướng, nh gia đình, nh v con và nh c nhng khung cnh quen thuc nơi xóm làng. Chúng tôi đều là những con người áo nâu chân đất, bao năm gắn bó với cây đa, giếng nước, sân đình với mái tranh nghèo, với những bờ dâu, bãi mía nên khi ra đi chúng tôi cũng nhớ, cũng đứt ruột, cũng đau lắm chứ. Tuy nhớ thì nhớ nhưng chúng tôi vẫn mặc kệ. Bởi nợ nước chưa trả xong thì chưa về được. Dù ra đi nhưng không lúc nào chúng tôi thôi nặng lòng với quê hương. Nhiều đêm đứng canh, lòng tôi lại bỗng chợt nhớ đến những người thân của mình ở quê nhà. Cánh rng bt ngàn đen thm trước mt tưởng chng như bãi c non xanh mượt đu làng – nơi ngày nào tôi còn cưỡi trên lưng trâu rong rui khp nơi vi nhng người bn cùng tui. Không biết ngôi nhà, con trâu nhà thế nào nh? Chng biết con mình, v mình, m cha nhà thế nào? Biết bao câu hi ngn ngang trong tâm trí tôi. Nhiu khi nh quá tôi li hát lên nhng câu ca vu vơ: “ai ra đi không chút vn vương/ chiến trường kia tranh đu/ Là tài trai chí bn phương/ mt lòng quyết lên đường/ Tiến bước lên Chiến đu cho đt Vit bng sáng muôn đi…” đ cho vơi bt đi nhng ni nh c ngày càng nng thêm trong lòng. Tình yêu v quê hương cũng chính là mt ngun sc mnh to ln v mt tinh thn giúp chúng tôi càng thêm vng lòng đ chiến đu giành li đc lp cho T quc.

            Cuc đi người lính cũng lm gian kh và khó khăn. Năm y, nhân dân ta va mi vượt qua nn đói năm 1945, cuc sng nhân dân ta khi y “đói nghèo trong rơm r”, đi kháng chiến, bn người chúng tôi mang c cái nghèo vào quân đi. Quân đi ta lúc y cũng nghèo, thiếu qun áo, giày dép, thuc men quân trang quân dng. Nhưng nhng người lính chúng tôi đã chia nhau gian kh, cm hiu ln nhau nhng đau đn, dày vò ca bnh tt, cùng hiu rõ v tng cơn n lnh ca nhng cơn st rét rng hành h dai dng. Thế nhưng chúng tôi vẫn lạc quan nở nụ cười. Cười trong gian lao, cười trong giá rét. Chính tình đng chí đã tiếp thêm sc mnh cho chúng tôi: thiếu đi nhng phương tin vt cht ti thiu, áo rách, qun vá, chân không giày,… nhưng chúng tôi vn thn nhiên n n cười và thương nhau nm ly bàn tay nhau đ truyn cho nhau hơi m, nim tin, đng lc và sc mnh. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Bàn tay m nng tình đng chí đm đà. Bàn tay nói li im lng ca s đoàn kết gn bó, s đng cm và c nim ha hn lp công mà chúng tôi dành cho nhau.

          Dù thời tiết lạnh buốt đến đâu đi chăng nữa, anh em chúng tôi vẫn phải đứng canh trong tư thế chờ giặc tới, sẵn sàng tấn công.Suốt đêm đứng canh, vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đem phục kích chờ giặc, vầng trăng đi vi chúng tôi như mt người bn, mt người đng hành, người bn tri k, cùng chia s vi chúng tôi cái lnh lo, u ám và đơn đc nơi rng sâu xám xt. Khiến bức tranh rừng hoang càng đẹp hơn, tráng lệ hơn, lung linh hơn. Chính sự kì lạ đó tạo nên bức tranh đẹp về người lính. Chúng tôi vác súng trên vai, lòng luôn hướng về quê nhà, quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình nh trăng treo trên đu mũi súng là mt hình nh va mang ý nghĩa hin thc, va mang ý nghĩa lãng mn. Nó cho thy ý chí quyết tâm chiến đu và khát vng đc lp cho dân tc ca anh em chúng tôi. Cho thy hòa bình đang đến gn, đang mỉm cười với chúng tôi, đang treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Súng và trăng như hòa quyện vào nhau, như gắn kết với nhau. Hay nói cách khác súng và trăng cũng chính là một cặp đồng chí như chúng tôi. Cp đng chí này nói v cp đng chí kia làm gi lên hng cái vô cùng. Súng và trăng là gn và xa, là cng rn và du hin, là chiến sĩ và thi sĩ, là hin thc và lãng mn, là cht chiến đu và cht tr tình….. Đó cũng chính là biu tượng cao đp v tình đng chí và th hin nim khao khát mun đánh đui gic xâm lược đ bo v cho ánh trăng hòa bình mãi rng ngi trên quê hương đt nước ca nhng người lính chúng tôi.

                             “Đạp quân thù xuống đất đen,

                               Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.”

                                               (Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi)

             Trở về với thực tại, về một cuộc sống hòa bình – nơi mà chiến tranh đã trở thành dĩ vãng, chỉ còn đọng lại trong những trang sách, những cuốn nhật ký và trong ký c ca nhng người lính chúng tôi. Thế nhưng, dù cuc đi có đi thay ra sao, dù cho lp bi kia có đóng kín nhng k nim y thì không bao gi c chúng tôi – ln thế h mai sau có th quên đi được nhng git m hơi, nước mt, xương máu, mà ông cha ta đã phi hi sinh và b ra đ gìn gi nn đc lp như hin ti. Được xem li thược phim y, tôi cm thy tht t hào vì đã tng đi qua cuc chiến tranh gian kh nhưng tht hào hùng. Tình cm mà chúng tôi vn luôn lưu gi trong tâm hn đó là tình cm đng đi – đng chí nng nàn keo sơn, bn cht. Nh có tình cm y mà chúng tôi đã chiến đu và chiến thng, giành li đc lp cho đt nước – dân tc và cho c ánh trăng hòa bình vn mãi sáng ngi trên bu tri quê hương. Qua đó, gii tr ngày nay – k c con cháu tôi sau này, cn phi mang trong mình mt nim t hào, kiêu hãnh v đt nước, phi làm cho tâm hn mình ngày càng thêm yêu T quc, yêu con người Vit Nam “Đng hi T quc đã làm gì cho ta, mà hãy hi ta đã làm gì cho T quc”. Ly tình yêu quê hương – đt nước làm đòn by thúc đy bn thân vươn cao và vươn xa hơn na trên nhng đu trường quc tế đ có th làm rng danh đt nước mai sau.

CRE: DZỊT

Khách