tk
Kỉ niệm tuổi thơ mở ra khi người cháu còn nhỏ. Đó là năm bốn tuổi với nhiều kí ức khôn nguôi. Tuổi thơ của cháu ấn tượng hơn cả là mùi khói. Khói ở đây được hiểu là khói của bếp lửa mỗi sớm hôm bà nhóm, là khói của những nghẹn ngào yêu thương. Năm đó là những tháng năm đói nghèo, chỉ với thành ngữ Đói mòn đói mỏi, ta đã hiểu được nỗi vất vả, khó nhọc của đời bà. Và hình ảnh của người bố đã xuất hiện trong dòng suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Công việc đánh xe của bố với bao vất vả gian truân và với đứa trẻ sống ra vòng tay yêu thương của bố mẹ chỉ có bà ở bên cận kề chăm sóc thì tình bà lại càng ấm êm hơn bao giờ hết. Hình ảnh thơ khói hun nhèm mắt cháu khiến ta xúc động biết bao! Người cháu đau đớn khi nghĩ về ký ức đói nghèo ấy. Ký ức tuổi thơ nhưng sự xúc động của cháu ở phút giây hiện tại qua từ nghĩ lại khiến ta hiểu đó không chỉ là xúc động vì cái đói vì cái khổ mà hơn hết, có lẽ người cháu chua xót khi nghĩ về nỗi vất vả của bà trong những ngày tháng chăm sóc cháu. Dòng thơ là nỗi xúc động nghẹn ngào trong nhà thơ vì Phút giây hiện tại phải sống xa bà, xa quê hương. Khổ thơ thứ hai đã trở thành bức tranh của kí ức đẹp tươi dẫu đói nghèo, kí ức muôn phần xúc động khiến người đọc xót xa.
Hình ảnh người bà thầm lặng, từng ngày từng giờ nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim người cháu yêu thương!
Người bà hiện lên với hình ảnh chắt chiu, cẩn thận tích góp từng hơi ấm lúc đất nước đang trong cảnh đói kém, loạn lạc. Bà vẫn âm thầm với khói bếp hun nhèm mắt cháu mà đem tấm lòng già cả của mình, nuôi dưỡng cháu hay cũng chính là mầm non tương lai của đất nước để mong phát triển dân tộc. Đến những khổ thơ tiếp theo, người bà hiện lên qua lời kể của đứa cháu về những kỉ niệm một thời khi cháu còn nhỏ. Bà giống như người mẹ hiền đã nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo ban cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong da diết và sự thiếu thốn tình cảm của bố mẹ khi xa nhà đã vơi bớt phần nào khi có sự đùm bọc, yêu thương che chở của người bà. Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, can đảm mạnh mẽ, đã hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Khi dặn cháu bố có gọi về chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Vậy là bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu nỗi đau và những cơ cực túng thiếu bà đã ghim lại trong lòng mình để làm hậu phương vững chắc nơi tiền tuyến. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh mọi nỗi thống khổ của tình riêng để đặt tình chung lên trên, đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đó ư. Bằng việt dường như đã thổi đến tâm hồn người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà hiện lên càng chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng của toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy sáng bất diệt. Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của thực tại, nhưng hơn hết bà cũng nhóm lên ngọn lửa của yêu thương hồng lên để sưởi ấm cháu trong những phút yếu lòng, luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, nối kết tình cảm đoàn kết với tình làng nghĩa xóm.
Như vậy, trái tim của bà chính là ngọn lửa của niềm tin, của chiến thắng của những tình cảm yêu thương và những kỉ niệm ấu thơ làm hành trang nâng đỡ cháu trong suốt chặng đường dài sau này. Để rồi dù có đi xa, có khói trăm tàu, có điện trăm nhà thì cháu vẫn khôn nguôi nhắc nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.