Bởi vì chế độ quân điền được thực hiện theo chủ trương "người cày có ruộng" nên ai ai cũng có ruộng sản xuất, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tác dụng tích cực của chế độ quân điền là làm cho nhân dân tích cực sản xuất để khôi phục kinh tế sau 20 năm chiến tranh xâm lược đã tàm phá đất nước. Chế độ quân điền có tác động tích cực trong việc thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt nam ở thế kỉ này phát triển, khi nền kinh tế đại điền trang của thời trước không còn nữa. Vì thế được hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, quan lại, quý tộc.
- Nhà Lê tịch thu ruộng đất trong tay quân Minh và bọn tay sai, tịch thu điền trang thái ấp của quý tộc trước đây, cộng với ruộng hoang hoá; tất cả sung làm ruộng đất công. Với quỹ đất công lớn, nhà Lê đã sử dụng một phần ban cho quý tộc tôn thất và quan lại cao cấp (lộc điền), phần lớn bổ sung cho công xã để chia cho dân cày cấy (quân điền). Phép quân điền được Lê Lợi ban hành năm 1429 và hoàn thiện vào thời Lê Thánh Tông; bộ 'luật quân điền' được chép trong Thiên Nam dư hạ tập năm 1481. Như vậy, ruộng đất phong thì được thu hẹp lại còn ruộng đất công xã trực tiếp đến tay người dân thì được mở rộng thêm. Chính sách này cho phép giải quyết khá ổn thoả mối quan hệ sở hữu ruộng đất giữa nhà nước với quý tộc quan lại và giữa nhà nước với nhân dân
-'Chế độ lộc điền' xuất hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho quý tộc, tông thất và những quan lại cao cấp, đẩy mạnh sự phát triển của giai cấp địa chủ - tầng lớp thống trị mới trong xã hội phong kiến lúc đó. Còn 'chế độ quân điền' thì lại có tác dụng tích cực nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện cho nhà nước huy động nhân lực và vật lực cho quốc phòng. 'Chế độ quân điền' thời Lê Sơ còn có tác dụng làm giảm bớt bất công trong xã hội, góp phần động viên những người đã và đang có công đóng góp xây dựng quân đội, đánh giặc giữ nước, như Lê Lợi (Lê Thái Tổ)
Vậy nên.....
- Phép quân điền được thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông:
+ Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 nam một lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước.
+ Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận.
+Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần.
+ Người cày ruộng phải nộp tô cho Nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn).
+Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu Nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng.
=> Chính sách "quân điền" thời Lê sơ là một bớc trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, Nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất.