Văn bản ngữ văn 9

CT

Hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975

H24
23 tháng 12 2017 lúc 16:12

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.

Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.

Nội dung:

Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.

Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước:

“Quê hương anh đất mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính.

“Anh chiến sỹ hiền lành

Tỳ tay trên mũi súng”.

(Cá nước – Tố Hữu)

Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo”.

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:

“Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh”.

(Nhớ – Hồng Nguyên)

Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùng

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:

“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn

Những đồng chí thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ chân mai

Băng mình qua núi thép gai

ào ào vũ bão ”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:

“Mai mốt bên cửa rừng

Anh có nghe súng nổ

Là chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung”

(Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:

“Con ra tiền tuyến xa xôi

Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.

(Bầm ơi – Tố Hữu)

Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui:

“Anh về cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội:

“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ

Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:

“Vẫn đôi dép lội chiến trường

Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”

(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)

Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” – (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:

” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành

Mắt tìm thù sao bay rực rỡ

Rượt đuổi thù chân như chiến mã

Đâm chết thù sức núi dồn tay”.

(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)

Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:

” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên

Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.

( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)

Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới:

” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ

Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng

Chân như pha sắt, hồn pha thép

Ngẩng cao đầu thở gió biển đông

(Phan Minh Đạo)

Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:

” Không kính, rồi xe không đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:

” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:

” Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu tổ Quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

ổ trứng hồng tuổi thơ.

( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân tộc:

“Hoan hô anh giải phóng quân

Kính chào anh con người đẹp nhất

Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất

Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời

Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi

Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ

Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu

Hỡi chàng dũng sỹ

Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.

( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)

Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

” Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung:

” Anh đánh như sét nổ trời rung

Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn

Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên

Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”

( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)

Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:

” Cháu nghe chú đánh những đâu

Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi

Đến đây chỉ thấy chú cười

Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”

( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)

Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện:

” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào

Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”

( Tố Hữu)

Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.

III. Kết luận:

Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.

Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.

Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:

“ Đất nước của Nhân dân,

Đất nước của ca dao, thần thoại.”

Bình luận (0)
H24
23 tháng 12 2017 lúc 16:13

Để tạo nên sự phong phú và đa dạng cho nền văn học Việt nam, mỗi nhà thơ đều chọn cho mình một đề tài sáng tác riêng tuy nhiên trong nền văn học 1945 – 1975 ít có nhà thơ nào không dành hết tình cảm và tâm huyết của mình cho đề tài cách mạng, quê hương đất nước. Đó là bức tranh của những ngày tháng gian khổ mà hào hùng, đó là khoảng thời gian xảy ra biết bao nhiêu thảm cảnh: bom đạn, máu chảy chết chóc…nhưng nhân dân ta vẫn kiên cường đấu tranh dành thắng lợi. Đặc biệt nổi bật trong bức tranh quê hương, bức tranh cách mạng ấy là hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý. Có thể nói chính những con người đó đã tạo nên đất nước ngày hôm nay.

Với những phẩm chất của mình anh bộ đội cụ Hồ đi vào thơ cách một cách tự nhiên và đi vào trong lòng người đọc thành một bức tượng đài bất hủ trong trái tim mỗi con người. Những anh bộ đội ấy tuy xuất thân khác nhau nhưng họ lại có những phẩm chất giống nhau, tiêu biểu cho phẩm chất có những con người Việt Nam anh hùng ta. Vẻ đẹp riêng và vẻ đẹp chung của những người lính tạo nên hình ảnh chung cho anh bộ đội Việt Nam.
Trước hết anh bộ đội Việt Nam được khắc họa qua vẻ đẹp ngoại hình:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
(Tây Tiến – Quang Dũng)

Đó là hình ảnh ngoại hình của người lính. Câu thơ có hai cách hiểu những người lính ấy do trải qua điều kiện chiến đấu gian khổ khó khăn thiếu thốn cho nên rụng hết tóc. Thân hình gầy gò ốm nhưng lại không hề yếu. Những nét ngoại hình ấy còn giúp cho chúng ta thấy được hình ảnh những anh bộ đội oai hùng giống như một vị chúa sơn lâm của rừng xanh vậy. Dường như bao nhieu vất vả bao nhiêu gian nan được khắc tạc in dấu trên ngoại hình của những người lính ấy. Ngoại hình xấu xí ấy nhưng lại trở thành một vẻ đẹp thể hiện sự kiên trung vượt qua gian nan khó khăn của những anh bộ đội cụ Hồ.

Những người lính ấy không chỉ “đẹp” về ngoại hình mà còn đẹp về tâm hồn và phẩm chất nữa.

Trong cuộc chiến tranh giành thắng lợi cho dân tộc thì những anh bộ đội của chúng ta phải mang trong mình một lý tưởng một khát vọng lớn lắm thì mới có thể tạo nên những chiến thắng oanh liệt như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng tiêu biểu cho những lý tưởng khát vọng của người lính Việt nam thời bấy giờ:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Hay

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Những người lính ấy ra đi với khát vọng giành lại độc lập tự do cho tổ quốc thân yêu, họ ra đi không hẹn ngày trở lại. Phải chăng người lính muốn nhắc đên sự hi sinh ở đây dù thế nào thì cũng quyết hi sinh để đổi lấy độc lập hòa binh cho đất nước. Đó không phải là lý tưởng cao đẹp lắm hay sao?

Hay Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Hành động “đầu không ngoảnh lại” thể hiện sự quyết tâm ra đi của những người lính. Vẫn biết đằng sau thềm nắng lá rơi đầy. Phải chăng cái thềm nắng lá rơi đầy kia cũng nhiều như lý tưởng ra trận của người chiến sĩ bộ đội.

Nguyễn Khoa Điềm cũng nói về lý tưởng và khát vọng của người lính – người con trai con gái Việt nam rất đẹp:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
………. .
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao huyền thoại”

Những người lính Việt nam không chỉ đẹp về lí tưởng mà còn đẹp về sự anh dũng dũng cảm trong chiến trường:
Nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công khi nói về sự anh dũng chiến đấu của người lính:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Quang Dũng miêu tả cảnh hùng vĩ của Tây Bắc nhưng qua cái hùng vĩ man dại ấy ta lại cảm nhận được cái anh dũng của người chiến sĩ. Những người lính ấy đã vượt lên trên cả những dốc thăm thẳm khúc khuỷu kia. Phải nói nếu không có sự anh dũng thì làm sao có thể vượt lên trên những dôc núi heo hút thăm thẳm kia.

Hay trong bài thơ tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật cũng viết:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rơi kính vỡ đi rồi
…….
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”

Từ những vần thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh ta vẫn thấy được từ trong bom rơi đạn nổ những chiếc không kính vẫn lao tới kẻ thù. Người cầm lái là những dũng cảm xuyên qua bom đạn cầm chắc tay lái để đưa các đồng chí của mình đến nơi an toàn. Dường như con đường như chạy thẳng vào tim người lính. Đó là con đường của niềm tin vào cách mạng chiến thắng.

Đến cái hi sinh của những người lính ấy cũng trở thành những bức tượng đài vô cùng đẹp. Các nhà thơ đã xây dựng lên những bức tượng đài người lính bằng thơ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đó là sự hi sinh oanh liệt nhưng rất đỗi trang trọng hào hùng. Tố Hữu cũng nói về sự hi sinh của người lính trở thành bất tử. Cho đến khi mất đi rồi người lính vẫn không thể nào ngã xuống, dáng đứng bất tử ấy làm nên dáng đứng Việt Nam:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vòng”

Hay là cái chết bất tử về với đất mẹ dịu hiền như những người lính trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Hay cũng có thể là sự hi sinh vô cùng nhẹ nhàng, coi cái chết nhẹ như lông hồng:

“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”

Dù chiến đấu khó khăn nhưng họ vẫn có một đời sống tâm hồn vô cùng lãng mạn:

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hay Nguyễn Đình Thi cũng viết:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Đó là những tình cảm tốt đẹp của người lính. Mỗi bước đường gian nan quyết liệt nhưng anh không bao giờ quên nhớ đến người thương của mình. Càng vất vả bao nhiêu thì người lính càng quý những giấy phút nhớ nhung ấy bấy nhiêu.

Cuộc sống gian nan vất vả họ không chỉ nhớ đến người yêu mà họ còn là những người sống yêu thương chan hòa, thật thà chất phác. Ở đó ta thấy một tình đồng chí gắn bó keo sơn:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Không những thế họ còn là những người lạc quan yêu đời, sống vui vẻ trong tình đồng chí ấy:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
……. .
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Không những thế mà họ còn có một tình quân dân keo sơn gắn bó:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Tất cả những điều đó là vẻ đẹp của những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thơ ca Việt Nam từ 1945- 1975. Qua những hình ảnh của những người lính ta thêm yêu những phẩm chất đáng quý ấy. Đồng thời ta trân trọng nền hòa bình và biết ơn họ rất nhiều. Trong tim mỗi con người Việt Nam những người lính vô danh ấy là một bức tượng đài bất hủ.

Bình luận (0)
DT
23 tháng 12 2017 lúc 16:35

Đặt vấn đề:

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ.

Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành… Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong… Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc… y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì.

Nội dung:

Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của “Người lính đi đầu” . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ.

Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước:

“Quê hương anh đất mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính.

“Anh chiến sỹ hiền lành

Tỳ tay trên mũi súng”.

(Cá nước – Tố Hữu)

Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với gió đèo”.

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc:

“Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh”.

(Nhớ – Hồng Nguyên)

Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “Quần tôi vài mảnh vá”, “Chân không giầy”, thêm vào đó thiếu thuốc men – bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùng

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:

“Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn

Những đồng chí thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ chân mai

Băng mình qua núi thép gai

ào ào vũ bão ”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả:

“Mai mốt bên cửa rừng

Anh có nghe súng nổ

Là chúng tôi đang cố

Tiêu diệt kẻ thù chung”

(Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc:

“Con ra tiền tuyến xa xôi

Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền”.

(Bầm ơi – Tố Hữu)

Đến với nhân dân “Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ“, (Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui:

“Anh về cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca…”

(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)

Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội:

“Đánh một trận dập đầu quỷ dữ

Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên”

(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)

Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường:

“Vẫn đôi dép lội chiến trường

Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”

(Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu)

Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” – ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: ” Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi “. Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn “Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung” – (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:” Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời” – (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường:

” Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành

Mắt tìm thù sao bay rực rỡ

Rượt đuổi thù chân như chiến mã

Đâm chết thù sức núi dồn tay”.

(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành – Phạm Hổ)

Lòng căm thù của anh có thêm ” nghìn độ lửa thiêu” và trở thành vô địch:

” Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên

Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc”.

( Bài thơ về hạnh phúc – Dương Hương Ly)

Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới:

” Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ

Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng

Chân như pha sắt, hồn pha thép

Ngẩng cao đầu thở gió biển đông

(Phan Minh Đạo)

Con đường Trường Sơn – con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn – Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài:

” Không kính, rồi xe không đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước”

Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn ” Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng “. Bất chấp bom đạn kẻ thù:

” Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

( Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

” Có một trái tim”- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương:

” Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu tổ Quốc

Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà

Vì tiếng gà cục tác

ổ trứng hồng tuổi thơ.

( Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)

Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những ” Con người đẹp nhất “, là niềm tự hào của dân tộc:

“Hoan hô anh giải phóng quân

Kính chào anh con người đẹp nhất

Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất

Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời

Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi

Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ

Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu

Hỡi chàng dũng sỹ

Cả năm châu chân lý đang nhìn theo”.

( Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)

Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là ” Cái chết hóa thành bất tử “- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

” Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

( Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung:

” Anh đánh như sét nổ trời rung

Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn

Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên

Quét Huế – Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng”

( Toàn thắng về ta – Tố Hữu)

Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả ” Năm châu, chân lý” nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ:

” Cháu nghe chú đánh những đâu

Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi

Đến đây chỉ thấy chú cười

Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi”

( Gửi theo các chú bộ đội – Trần Đăng Khoa)

Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất ” Yêu thương mênh mông”, ” Căm hờn cháy bỏng”, ” rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng”. Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là ” Thước đo mọi giá trị trên đời”. Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác – Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện:

” Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào

Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ”

( Tố Hữu)

Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca.

III. Kết luận:

Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính.

Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.

Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:

“ Đất nước của Nhân dân,

Đất nước của ca dao, thần thoại.”

( Nguyễn Khoa Điềm )

Bình luận (0)
DT
23 tháng 12 2017 lúc 18:10

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở đầu một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học Việt Nam – một nền thơ ca phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, trước vận hội lịch sử đã tích tụ qua nhiểu thế kỉ. Đọc thơ ca Việt Nam 1945 – 1975, chúng ta thấy cuồn cuộn niềm vui của hàng triệu người ra trận, thấy được những mất mát đau thương, những khát khao, ước vọng chân thành... Ba mươi năm liên tục đấu tranh chống kẻ thù cũng là khoảng thời gian văn học phát triển mạnh mẽ không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học lấy đề tài chiến tranh, viết về chiến tranh cách mạng. Thơ cũng như văn, hết lòng ca ngợi người anh hùng, người lính, người mẹ, thanh niên xung phong... Tất cả hiện lên trong tác phẩm với mọi tầng lớp, lứa tuổi, dân tộc... y như thật ở trên đời. Và họ đẹp – cái đẹp tiêu biểu cho cả thời đại. Cái đẹp ấy kết tinh đậm đà ở hình tượng anh bộ đội cụ Hồ – anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân. Bởi các anh chính là người anh hùng suốt hai cuộc kháng chiến trường kì. II. Nội dung: Dân tộc ta đã tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đã giành thắng lợi vẻ vang. Lẽ tất nhiên, ở đất nước mà hơn ba mươi năm không dời tay súng, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là hình ảnh con người đẹp nhất, đáng yêu nhất là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Những chiến sỹ bộ đội cụ Hồ - anh vệ quốc quân trước kia, anh giải phóng quân sau này đã đi qua 2 cuộc kháng chiến và viết lên những chiến công chói lọi: Điện Biên Phủ, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, Điện Biên Phủ trên không, đặc biệt là cuộc tổng tiến công và nổi dậy vĩ đại mùa xuân 1975 mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những chiến công đó đã đi vào lịch sử như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX. Đó là bước đi của người anh hùng tiếp nối con đường rực rỡ của cha ông, đang nhịp bước cùng thời đại với tư cách của "Người lính đi đầu" . Vì thế, trong cuộc sống cũng như trong thơ ca, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ bao giờ cũng chiếm chỗ cao nhất trong tâm hồn quần chúng và trong trái tim của các nhà thơ. Trước hết, trong thơ ca đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh trung thực của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, anh ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước: "Quê hương anh đất mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". (Đồng Chí - Chính Hữu) Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng: "Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ". (Đồng Chí - Chính Hữu) Anh mang bản chất chất phác, giản dị, trung thực. Thực ra anh là người nông dân mặc áo lính. "Anh chiến sỹ hiền lành Tỳ tay trên mũi súng". (Cá nước - Tố Hữu) Xuất thân từ người lao động, anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “trăm suối ngàn khe”, vượt suốt, trèo đèo trong cảnh “ngày nắng đốt” chói chang, những “đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Không một khó khăn, trở lực ngăn được bước tiến của anh: "Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo". (Lên Tây Bắc - Tố Hữu) Nói tới người chiến sỹ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Anh là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại mới. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Anh đánh giặc bằng những vũ khí thô sơ nhất của quê hương với khẩu hiệu: Cướp súng giặc để giết giặc: "Lột sắt đường tàu Rèn thêm dao kiếm áo vải chân không Đi lùng giặc đánh". (Nhớ - Hồng Nguyên) Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao gian khổ, khó khăn: Thiếu từ những trang bị tối thiểu "áo anh rách vai", "Quần tôi vài mảnh vá", "Chân không giầy", thêm vào đó thiếu thuốc men - bệnh số rét rừng hành hạ. Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính Tây Tiến: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùng Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". (Tây Tiến - Quang Dũng) Không thể tính được những hy sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng: "Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn Những đồng chí thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ chân mai Băng mình qua núi thép gai ào ào vũ bão " (Hoan hô chiến sỹ Điện Biên - Tố Hữu) Nguồn gốc sức mạnh để giúp các anh vượt lên tất cả là lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc cháy bỏng. Trước sự hy sinh của người đồng đội, đau thương chút lên đầu ngọn súng, chỉ còn một sự trả thù cao cả: "Mai mốt bên cửa rừng Anh có nghe súng nổ Là chúng tôi đang cố Tiêu diệt kẻ thù chung" (Viếng bạn - Hoàng Lộc) Tình yêu thương của người chiến sỹ là tình yêu lớn. Trong đó riêng, chung kết hợp hài hòa. Tâm tư, lý tưởng giản dị mà sâu sắc: "Con ra tiền tuyến xa xôi Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền". (Bầm ơi - Tố Hữu) Đến với nhân dân "Các anh về mái ấm nhà êm/ Các anh về xôn xao làng bé nhỏ", (Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông). Anh đi đến đâu, ở đó có sự sống và niềm vui: "Anh về cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân Anh về, sáo lại ái ân Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca..." (Lên Tây Bắc - Tố Hữu) Là con đẻ của nhân dân, được nhân dân yêu thương, che chở, các anh đã cùng với toàn dân tộc làm nên một huyền thoại của thời đại, quyết định số phận thực dân Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bằng chiến thắng vang dội: "Đánh một trận dập đầu quỷ dữ Sáng nghìn năm lịch sử Điện Biên" (Hoan hô chiến sỹ Điện Biên - Tố Hữu) Pháp thua, Mỹ lại nhảy vào Miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Người chiến sỹ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh, con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường: "Vẫn đôi dép lội chiến trường Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy" (Tiếng hát sang xuân - Tố Hữu) Đó là sự tiếp nối tự nhiên của hai thế hệ cầm súng mà sức mạnh nhân lên cùng năm tháng. Đó là sự kế thừa của truyền thống “ Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận ” - ( Tố Hữu). Tâm hồn người chiến sỹ hôm nay náo nức lời kêu gọi của Bác Hồ: " Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi ". Tâm hồn ấy còn vang vọng tiếng thơ kiên cường của Lý Thường Kiệt, lời hịch sang sảng của Trần Quốc Tuấn, khí thế oai hùng của Tây Sơn "Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung" - (Tố Hữu). Có một cái gì rất khác ở anh Vệ quốc quân thời chống Pháp. Đó là chiều sâu mới, tầm cỡ mới của ý thức với dân tộc và thời đại:" Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời" - (Tố Hữu). Anh đánh Mỹ với một sức mạnh phi thường: " Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành Mắt tìm thù sao bay rực rỡ Rượt đuổi thù chân như chiến mã Đâm chết thù sức núi dồn tay". (Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành - Phạm Hổ) Lòng căm thù của anh có thêm " nghìn độ lửa thiêu" và trở thành vô địch: " Lấy nỗi đau vô cùng làm sức mạnh vô biên Bước truy kích đạp trăm rào gai sắc". ( Bài thơ về hạnh phúc - Dương Hương Ly) Niềm tự hào cũng đạt tới đích cao vời vợi, anh đã trở thành nhân vật huyền thoại của thời đại mới: " Con đứng đây dưới Trường Sơn hùng vĩ Mười tám sức trai luyện lửa thành đồng Chân như pha sắt, hồn pha thép Ngẩng cao đầu thở gió biển đông (Phan Minh Đạo) Con đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối hậu phương lớn với tiền tuyến lớn - Nơi đế quốc Mỹ chút xuống không biết bao nhiêu tấn bom đạn và chất độc hóa học, lại là con đường gắn bó máu thịt với các anh bộ đội lái xe. Bom đạn kẻ thù, đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy đến trơ trụi, mất đi mọi thứ bên ngoài: " Không kính, rồi xe không đèn Không có mui xe, thùng xe có xước" Nhưng trên những chiếc xe ấy, người chiến sỹ vẫn " Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng ". Bất chấp bom đạn kẻ thù: " Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim" ( Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật) " Có một trái tim"- trái tim đó chính là tình yêu thương mênh mông với đồng bào, đồng chí ở Miền Nam, đó là lòng căm thù giặc cháy bỏng. Dường như cả những kỷ niệm tuổi thơ cũng tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho người chiến sỹ chiến đấu và vượt lên mọi khó khăn thử thách. Ta hãy nghe tâm sự của một chiến sỹ với người bà kính yêu ở hậu phương: " Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu tổ Quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác ổ trứng hồng tuổi thơ. ( Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh) Chính vì được giác ngộ lý tưởng sâu sắc, ngươi chiến sỹ đứng trên đỉnh cao mới của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Anh xứng đáng là những " Con người đẹp nhất ", là niềm tự hào của dân tộc: "Hoan hô anh giải phóng quân Kính chào anh con người đẹp nhất Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ Không tự ngắm mình anh chẳng hay đâu Hỡi chàng dũng sỹ Cả năm châu chân lý đang nhìn theo". ( Bài ca xuân 68 - Tố Hữu) Sự hy sinh của người lính là sự hy sinh trong sáng, là " Cái chết hóa thành bất tử "- ( Tố Hữu ) trong lòng nhân dân, trong lòng đất nước. Lê Anh Xuân đã ghi lại một trường hợp hy sinh điển hình để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ: " Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng" ( Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân) Con đường đi của anh bộ đội cụ Hồ là con đường của những chiến công kỳ diệu. Từ chân đất, anh “cưỡi máy bay lướt giữ không gian”- (Thanh Hải) . Từ mang ngọn tầm vông, anh điều khiển dàn tên lửa. Anh là hiện thân của sức mạnh nhân dân anh hùng. Trong đại thắng mùa xuân 1975, anh truy kích kẻ thù bằng những bước chân của Phù Đổng, hào khí của Lê Lợi, Quang Trung: " Anh đánh như sét nổ trời rung Anh chuyển như lũ dồn bão cuốn Chặt Buôn Mê Thuật rụng cả Tây Nguyên Quét Huế - Thừa Thiên đổ nhào Đà Nẵng" ( Toàn thắng về ta - Tố Hữu) Các anh lại viết lên một huyền thoại mới của thời đại, được cả " Năm châu, chân lý" nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục. Tuy nhiên, không vì vậy mà anh bị thần thánh hóa, trái lại vẫn là những con người mang cốt cách bình dị. Dũng sỹ diệt Mỹ qua con mắt trẻ thơ: " Cháu nghe chú đánh những đâu Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi Đến đây chỉ thấy chú cười Chú đi gánh nước chú ngồi đánh bi" ( Gửi theo các chú bộ đội - Trần Đăng Khoa) Anh bộ đội cụ Hồ là kết tinh của bình thường và phi thường, của vĩ đại và giản dị. Và còn là sự kết tinh của nhiều phẩm chất " Yêu thương mênh mông", " Căm hờn cháy bỏng", " rất mãnh liệt và cũng rất dịu dàng". Người chiến sỹ có tầm vóc lớn lao của thời đại, phẩm chất của anh là " Thước đo mọi giá trị trên đời". Đó là vì anh đã phấn đấu bền bỉ qua hai cuộc kháng chiến, được nhân dân nuôi dưỡng và truyền cho dòng sữa nhân nghĩa, anh hùng của bốn nghìn năm, được thời đại cho tư tưởng khoa học và cách mạng Mác - Lê nin, được Đảng, Bác chăm lo giáo dục và rèn luyện: " Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ" ( Tố Hữu) Tiếng súng lại nổ ở hai đầu biên giới. Các anh lại phải ra Bắc vào Nam thực sự là điểm tựa của lịch sử và của nhân dân để bảo vệ vững chắc Tổ Quốc thân yêu. Anh là niềm tự hào lớn của dân tộc, là điển hình cao đẹp cho người anh hùng trong thời đại. Anh mãi và sẽ là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn trong những sáng tác thơ ca. III. Kết luận: Đọc những trang thơ kháng chiến giai đoạn 1945 – 1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính. Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hoà quyện trong hồn thơ, trong mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý thơ. Nó bảo tồn được sức sống không chỉ vì đó là tiếng nói của thời đại lịch sử mà còn là tiếng nói trái tim của những phong cách thơ riêng. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế người lính đối diẹn với lịch sử, với chân trời tự nhiên luôn giãn nở. Các anh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc. Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là: “ Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại.”

Bình luận (0)

Các câu hỏi tương tự
DT
Xem chi tiết
NM
Xem chi tiết
MT
Xem chi tiết
CY
Xem chi tiết
NL
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết
NT
Xem chi tiết
LP
Xem chi tiết
H24
Xem chi tiết