Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng được nhắc đến với tên gọi Đệ nhị thế chiến, Thế chiến II hay Đại chiến thế giới lần thứ hai,...) là một cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ khoảng năm 1939 và chấm dứt vào năm1945, diễn ra giữa các lực lượng Khối Đồng Minh và Phe Trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu hết mọi lục địa trên thế giớiđều bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực và Nam Mỹ. Cho đến hiện nay, nó là cuộc chiến có quy mô rộng lớn và gây nhiều tàn phá nhất trong lịch sử nhân loại.[6]
Nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa ước Versailles, đại khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày1 tháng 9 năm 1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai cuộc thế chiến thực ra chỉ là một và được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.[7]
Chiến sự xảy ra tại khắp các khu vực: Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương, phần lớn Đông Á và Đông Nam Á. Trong đó, chiến sự có quy mô lớn nhất, số người thiệt mạng nhiều nhất diễn ra ở khu vực Đông Âu giữa Liên Xô (một nước thuộc khối Đồng Minh) và phe Trục (gồm Đức Quốc Xã và 8 nước chư hầu của Đức). Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 (theo giờ Berlin, còn theo giờ Moskva là ngày 9 tháng 5) nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9năm 1945.
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bomhàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã chết do cuộc chiến này (con số thương vong vẫn tiếp tục được nghiên cứu), kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc xã (Holocaust). Trong số thương vong, 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô từ 23 tới 27 triệu người chết, trong khi theo tỷ lệ dân số là Ba Lan với 16% (5,6 triệu người chết so với 34,8 triệu người trước chiến tranh[8]).
Cuộc chiến cũng tạo ra nhiều phát minh lớn cho nhân loại như vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, ra-đa...
Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai khối: một phía chịu ảnh hưởng của phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước đồng minh của Hoa Kỳ nằm trong kế hoạch gây ảnh hưởng chính trị thông qua các viện trợ kinh tế mang tên Kế hoạch Marshall trong khi các nước kia trở thành các nước chủ nghĩa cộng sản đồng minh của Liên Xô. Hoa Kỳ liên kết đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, trong khi Liên Xôliên kết đồng minh theo Hiệp ước Warszawa. Các liên minh này đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh Lạnh sau Thế chiến thứ II. Tại châu Á, sự chiếm đóng Nhật Bản của quân đội Hoa Kỳ đã dân chủ hóa nước này. Trong khi đó, do hậu quả của nội chiến, Trung Quốc tồn tại hai nhà nước: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc tạiĐài Loan.
Mục lục 1Hoàn cảnh và nguyên nhân 1.1Tình hình châu Âu 1.1.1Sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít 1.1.2Quan hệ giữa các nước châu Âu 1.2Tình hình châu Á 2Diễn biến 2.1Chiến trường châu Âu 2.1.1Chiến trường châu Âu 1939-1940 2.1.2Chiến trường Tây Âu 2.1.3Chiến tranh giữa Đức và Anh 2.1.4Chiến tranh Đại Tây Dương 2.1.5Chiến trường Địa Trung Hải 2.1.6Mở màn chiến dịch Bắc Phi 2.1.7Mặt trận phía đông 2.1.7.1Đức tấn công Liên Xô 2.1.7.2Bước ngoặt tại Moscow và Stalingrad 2.1.7.3Liên Xô phản công 2.1.8Mặt trận Bắc Phi kết thúc 2.1.9Chiến dịch Ý 2.1.10Mặt trận phía Tây 2.1.10.1Những kế hoạch ban đầu 2.1.10.2Các trận ném bom nước Đức 2.1.10.3Đồng Minh đổ bộ lên Tây Âu 2.1.11Phe Trục thua cuộc tại châu Âu 2.2Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương 2.2.1Sự bành trướng của Nhật Bản 2.2.2Nhật Bản thua cuộc 3Ảnh hưởng đến dân thường 3.1Đức quốc xã 3.2Liên Xô 3.3Mỹ 3.4Anh 3.5Trung Quốc 3.6Pháp 3.7Nhật 4Kết quả 4.1Số người chết 4.1.1Tại châu Âu 4.1.2Tại châu Á - Thái Bình Dương 4.2Hậu quả lâu dài 5Các nước tham chiến và hậu quả 5.1Sự đóng góp của các quốc gia 5.2Khối Đồng Minh 5.3Phe Trục 5.4Hậu quả 5.5Những tiến bộ trong công nghệ và chiến tranh 6Tóm tắt 7Chú thích 7.1Tham khảo 8Liên kết ngoài Hoàn cảnh và nguyên nhânChiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ những lý do khác nhau tại các khu vực địa lý khác nhau. Tại châu Âu, thế chiến thứ II là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất khiĐức muốn xóa bỏ các điều ước trong Hòa ước Versailles và mong muốn lấy lại vị thế cường quốc, đồng thời phân chia lại lãnh thổ cũng như ảnh hưởng chính trị tại châu Âu. Sự phát triển của chủ nghĩa phát xít tại châu Âu và các lãnh tụ tại Đức, Ý có tham vọng vẽ lại bản đồ quốc gia cũng như bản đồ địa chính trị châu Âu và châu Phi, phân chia lại thuộc địa, chia lại thị trường. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Trung Âu và Đông Âu không ổn định sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã cũng làm chiến tranh dễ xảy ra.
Tại Thái Bình Dương, ý định trở thành cường quốc số một của Đế quốc Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ sáp nhập Trung Quốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được. Tham vọng chiếm thuộc địa cuối cùng đã lôi cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.
Tình hình châu ÂuSự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít
Cuộc Đại khủng hoảng trên quy mô toàn cầu vào năm 1929 khiến kinh tế trở nên tiêu điều, dân chúng các nước trở nên khốn khổ. Tại nhiều nước, người dân trở nên căm ghét chính phủ và các nhà tư bản, họ quay sang ủng hộ các tư tưởng cực đoan, đòi phát động chiến tranh để phân chia lại thuộc địa, chiếm thêm tài nguyên để giải quyết khó khăn trong nước. Trong bối cảnh đó, vào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại Ý và Đức, trong khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường các nước Tây Âu và Trung Âu.
Riêng tại Đức, Đảng Đức Quốc xã và thủ lĩnh Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền mạnh. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành công hơn.
Thủ lĩnh Đức Quốc xã, Adolf Hitler, đã trình bày tham vọng của mình ngay từ năm 1924, trong cuốn tự truyện Mein Kampf, cụ thể như sau:
Nước Đức sẽ trở thành "bá chủ của thế giới". Trước hết, phải tính sổ với nước Pháp, "kẻ thù truyền kiếp của dân Đức". Sau khi đã tiêu diệt được Pháp, Đức phải bành trướng về hướng Đông – chủ yếu là chiếm đất của nước Nga để giành lấy "không gian sinh tồn" (tức là mở rộng lãnh thổ và tài nguyên), nếu chiếm được nước Nga, nước Đức sẽ không còn bị bó hẹp trong lãnh thổ bé nhỏ hiện tại mà sẽ trở thành một đại quốc có lãnh thổ rộng bao la. Về tính chất của nhà nước Quốc xã tương lai, Hitler nói rõ rằng sẽ không có cái trò "dân chủ ngu xuẩn" và rằng Đế quốc thứ Ba sẽ được đặt được một thể chế độc tài. Hitler xem mọi đời sống như là sự tranh đấu trường kỳ và thế giới như là khu rừng, trong đó chủng tộc nào mạnh hơn sẽ sống sót và thống trị. Đây là điều cốt lõi của tư tưởng Quốc xã về tính ưu việt của chủng tộc Aryan (người Đức). Và nếu chủng tộc Aryan muốn vượt lên trên thì phải chà đạp những chủng tộc khác, đặc biệt là những chủng tộc mà Hiler xem là cỏ rác – đó là Do Thái và Slav (người Nga).Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên vào việc xây dựng lại quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân sự. Trong khi đó, nhiều nhà tài phiệt Anh, Mỹ và phương Tây đã cung cấp tài chính cho Hitler vào những năm 1930 để ông ta có thể chi trả cho các hoạt động chính trị cũng như giúp Đức gây dựng nền công nghiệp quân sự (vấn đề mối quan hệ tài chính của Đức Quốc xã với các tập đoàn tư bản Mỹ được che giấu triệt để đã được nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng Anthony Sutton làm rõ trong cuốn sách "Phố Wall và sự nổi lên của Hitler"[9]). Các tài liệu mới giải mật từ kho lưu trữ Hoa Kỳ cho thấy Thượng nghị sĩ Prescott Bush(cha của Tổng thống Mỹ thứ 41 và ông nội của Tổng thống Mỹ thứ 43) là một trong những nhà tài phiệt Mỹ đã tham gia giao dịch với các kiến trúc sư tài chính của chủ nghĩa phát xít[10].
Vào năm 1936, với ý định đáp trả hiệp ước tương trợ Pháp-Xô năm 1935, Hitler đã đem quân tái chiếm đóng Rhineland, vùng đất mà theo quy định của Hòa ước Versailles là không thuộc về người Đức. Chính phủ Pháp lúc ấy đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính ở trong nước khiến đồng franc mất giá[11], nên họ chủ trương tránh gây sự với người Đức mặc cho Đảng Cộng sản Pháp kêu gọi chính phủ có hành động quân sự nhằm lấy lại quyền kiểm soát đối với khu vực này. Chính phủ Anh cũng ủng hộ hành động xâm lược của Đức trong tình cảnh người dân Anh kêu gọi chính phủ không dùng vũ lực để giải quyết cuộc khủng hoảng và đa số người Anh tin rằng các thỏa thuận của hiệp ước Versailles là bất công đối với nước Đức[12].
Giới chức Anh, Pháp, Mỹ, bất chấp sự trỗi dậy của Đức Quốc Xã, đã tích cực đầu tư vào nền kinh tế Đức, tạo điều kiện cho bộ máy chiến tranh của phát xít Đức phát triển[13]. Hãng sản xuất vũ khí danh tiếng của Anh Vickers-Armstrong đã cung cấp vũ khí hạng nặng cho Đức, trong khi các công ty Mỹ như Pratt & Whitney, Douglas, Bendix Aviation... cung cấp cho Đức các bằng sáng chế, bí mật quân sự và các động cơ máy bay tối tân[14]. Thủ tướng Anh Stanley Baldwin tóm tắt vấn đề vào tháng 7 năm 1936 như sau: “Nếu chiến sự có diễn ra ở châu Âu, thì tôi mong đó sẽ là cuộc chiến giữa Bolshevik (Liên Xô) và Đức Quốc Xã”[15].
Quan hệ giữa các nước châu Âu
Sự trỗi dậy của Đức được coi là một mối đe dọa đối với Ba Lan. Người Đức đã liên tục gây sức ép đòi trả lại vùng Danzig, vùng lãnh thổ được sáp nhập vào Ba Lan theo hòa ước Versailles. Người Ba Lan kêu gọi sự giúp đỡ từ nước Pháp đề phòng trường hợp xảy ra đụng độ với Đức, nhưng Pháp tỏ ra khá thờ ơ [16]. Sự từ chối hợp tác của Pháp có thể coi là một trong những lí do khiến Ba Lan quyết định đàm phán với người Đức [17][18][19][20][21]. Ngoài ra, do thủ tướng Đức Adolf Hitler là người Áo nên Thủ tướng Ba Lan Piłsudski coi Hitler là người "kém nguy hiểm hơn" các tiền nhiệm người Đức như Gustav Stresemann, và ông ta cho rằng Liên Xô là mối đe dọa lớn hơn. Do vậy Ba Lan chủ trương hợp tác với Đức để cùng chống lại Liên Xô, thậm chí nước này phản đối các nỗ lực của Pháp và Tiệp Khắc để đưa Liên Xô vào một mặt trận chung chống lại Đức.
Thủ tướng Ba Lan Józef Piłsudski, Bộ trưởng tuyên truyền Đức Joseph Goebbels gặp nhau ởWarsaw ngày 15 tháng 6 năm 1934, 5 tháng sau khi Ba Lan và Đức ký Hiệp ướcHiệp ước Không xâm lược giữa Ba Lan và Đức, ký vào ngày 26 tháng 1 năm 1934 có hiệu lực 10 năm. Đức đòi hỏi khu vực Danzig, Ba Lan đòi hỏi Korridor và đòi sửa lại biên giới vùng Oberschlesien. Khi Đức chiếm Tiệp Khắc (năm 1938), Ba Lan đã đem quân xâm chiếm vùng Tesschen, vùng lãnh thổ mà họ đã có tranh chấp với Tiệp Khắc năm 1919 nhằm không để vùng đất này rơi vào tay người Đức. Đây là vùng lãnh thổ có khá đông người Ba Lan sinh sống, và đa số người dân địa phương tại đây hoan nghênh sự chiếm đóng này [22] mặc dù sau đó họ đã tỏ ra không hài lòng trước chính sách đồng hóa những người dân Tiệp Khắc sống tại đây. Phát xít Đức chấp nhận để cho Ba Lan chiếm giữ Tesschen, khiến cho nhiều người Tiệp Khắc về sau đã cáo buộc chính phủ Ba Lan đồng lõa với quân xâm lược Phát xít Đức, bất chấp chính phủ Ba Lan đã liên tục phủ nhận[23].
Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại quân phiến loạn phát xít Tây Ban Nha của Franco (còn gọi là phe Quốc gia) được Adolf Hitler và Benito Mussolini cũng như chế độ độc tài của Salazar ở Bồ Đào Nha và cả Tòa thánh Vatican hậu thuẫn. Anh và Pháp tuyên bố không can thiệp vào cuộc nội chiến, nhưng cả hai đều có những động thái của riêng mình. Đa số giới lãnh đạo Anh ngả về phe Quốc gia của Franco bởi tư tưởng chống cộng của họ. Ngoại trưởng Anh lúc đó là Eden đã tiết lộ rằng chính phủ Anh "ưa thích một chiến thắng của phe nổi dậy hơn một chiến thắng của phe Cộng hòa" [24]. Hải quân Hoàng gia Anh cũng công khai ủng hộ phe Quốc gia của Francisco Franco. Trong cuộc nội chiến, Hải quân Hoàng gia đã liên tục cung cấp thông tin về vận chuyển của phe Cộng hòa cho các lực lượng Phát xít, và tàu HMS Queen Elizabeth thậm chí đã được sử dụng để ngăn chặn Hải quân phe Cộng hòa tấn công cảng Algeciras. Ở Pháp thì xảy ra một sự chia rẽ sâu sắc khi những người cánh tả yêu cầu chính phủ của họ hỗ trợ những người Cộng hòa, trong khi phe cánh hữu lại muốn giúp đỡ lực lượng Phát xít. Chính phủ Pháp của Léon Blum có cảm tình hơn với phe Cộng hòa do họ lo sợ rằng việc phe Franco lên nắm quyền tại Tây Ban Nha sẽ tạo ra thế bao vây của các lực lượng phát xít đối với nước Pháp.[25] Chính phủ Pháp đã có một số hành động nhằm thể hiện sự ủng hộ cho phe Cộng hòa, song từ chối can thiệp sâu hơn một phần cũng bởi sức ép từ Anh và các đảng phái ủng hộ phát xít ở trong nước. Mỹ với Đạo luật Trung lập đã tuyên bố không tham gia vào những sự kiện bên ngoài châu Mỹ, và đến ngày 6 tháng 1 năm 1937 thì Quốc hội cũng thông qua nghị quyết về việc cấm xuất khẩu vũ khí sang Tây Ban Nha [26] Vào năm 1938, khi phe Cộng hòa đứng trước nguy cơ thất bại, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đề xuất bãi bỏ việc cấm bán vũ khí và yêu cầu đưa máy bay sang Tây Ban Nha nhằm giúp đỡ Phe Cộng hòa song không được Quốc hội chấp thuận [27]. Một số nhà tài phiệt Mỹ giai đoạn này đã ủng hộ Phe phát xít của Franco bằng cách cung cấp xăng dầu, phương tiện vận tải cũng như tiền bạc, thậm chí những sự giúp đỡ này còn được đánh giá là đã "góp phần quyết định cho chiến thắng về sau của phe Phát xít"[28].
Nước Đức và nước Ý của Adolf Hitler và Benito Mussolini thì công khai ủng hộ phe Quốc gia. Họ đã gửi binh lính, máy bay, xe tăng và các loại vũ khí khác cho phe Franco. Chính phủ Ý gửi "Quân đoàn tình nguyện", còn Đức gửi Binh đoàn Condor (Condor Legion). Lực lượng Quân đoàn tình nguyện lên đến đỉnh điểm với 50.000 quân và tổng cộng có tới 75.000 người Ý tham chiến ở Tây Ban Nha. Thời kỳ cao điểm có chừng 10.000 quân Đức, trong tổng số 16.000 người đến Tây Ban Nha tham chiến[29]. Ngược lại với Đức và Ý, Liên Xô chủ trương giúp đỡ phe Cộng hòa nhưng với hình thức bí mật. Chính phủ Liên Xô cung cấp viện trợ khí tài cho lực lượng Cộng hòa, và được chính phủ Cộng hòa trả bằng vàng dự trữ của ngân khố quốc gia. Mặc dù vậy chất lượng các loại vũ khí mà Liên Xô bán cho phe Cộng hòa là không đồng bộ khi hầu hết các loại súng trường và súng ngắn do họ cung cấp đều đã cũ, lạc hậu hoặc chỉ có thể sử dụng hạn chế (một số có từ những năm 1860) trong khi các loại xe tăng như T-26 và BT-5 lại khá hiện đại và tỏ ra hiệu quả trong chiến đấu.[30][31] Liên Xô cung cấp máy bay cho Phe Cộng hòa bằng lực lượng của họ nhưng máy bay do Đức cung cấp cho lực lượng Quốc gia đã tỏ ra vượt trội hơn vào cuối cuộc chiến. "Quân tình nguyện Liên Xô" được đưa sang Tây Ban Nha tham chiến chỉ có 700 người, đa phần là các phi công máy bay, hoặc lái xe tăng. Ngoài ra còn có những chiến sĩ của các Lữ đoàn quốc tế chiếm phần lớn nhất trong số các chiến sĩ quốc tế chiến đấu cho chính quyền Cộng hòa. Chừng 30.000 người được cho là đến từ 53 quốc gia khác nhau chiến đấu trong các lữ đoàn quốc tế.
Cuộc Nội chiến tại Tây Ban Nha kết thúc vào 1 tháng 4 năm 1939, với thắng lợi của phe nổi dậy và việc thiết lập chế độ độc tài của thủ lĩnh phe Quốc gia là Tướng Francisco Franco. Franco đưa Tây Ban Nha đi theo mô hình phát xít tương tự như Hitler và Mussolini, nhưng tuyên bố trung lập trong chiến tranh thế giới thứ 2.
Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức quốc xã thôn tính nước Áo mà không cần nổ một phát súng. Việc Áo sáp nhập vào Đức nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân hai nước [32] nên cả Anh, Pháp đều không có động thái phản đối [33]. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain tuyên bố: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".[34]. Ngược lại Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này của Đức [35].
Lễ ký Hiệp ước Munich năm 1938 giữa Anh, Phápvà Đức. Adolf Hitler đứng giữa, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đứng ngoài cùng bên tráiSau khi Áo bị sáp nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudetenland từ Tiệp Khắc. Đây là vùng đất có số lượng lớn người gốc Đức sinh sống. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp Khắc, sẵn sàng tấn công nước này. Báo chí Đức, với ý định gây áp lực cho các cường quốc phương Tây chấp nhận yêu sách của Hitler, cũng liên tục đưa ra những thông tin về tội ác của người Tiệp Khắc đối với những người dân gốc Đức tại Sudetenland [36]. Hitler thậm chí còn cáo buộc chính phủ Tiệp Khắc đang dần dần tiêu diệt những người gốc Đức sống tại đây [37].
Đến lúc này, tham vọng của Hitler đã lộ rõ, Liên Xô đề nghị với Anh - Pháp việc gạt bỏ những mâu thuẫn giữa hai phía và thành lập một liên minh nhằm ngăn chặn Hitler nhưng bị 2 nước này từ chối. Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này (Hiệp ước Munich) ngày 30 tháng 9 bất chấp sự phản đối của chính phủ Tiệp Khắc. Chính phủ Pháp cũng đồng ý với Đức và Anh loại Liên Xô (nước ủng hộ Tiệp Khắc) ra khỏi hội nghị Munich.[38]
Bằng Hiệp định Munich, vùng Sudentenland được sáp nhập vào Đức, đổi lại Anh và Pháp muốn Hitler cam kết sẽ không tiến hành bất cứ một cuộc chiến xâm lược nào ở châu Âu [39]. Anh và Pháp cũng thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áolà việc đã rồi đồng thời làm ngơ cho Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chiếm phía tây Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã[40] Sau khi ký Hiệp định Munich, Thủ tướng Anh Chamberlain đã tự tin tuyên bố "đây là hòa bình cho chúng ta". Trong một lá thư gửi Tổng giám mục Canterbury, Chamberlain đã viết rằng: "Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó người Séc sẽ thấy rằng những gì chúng tôi đã làm là nhằm bảo đảm cho họ một tương lai tốt đẹp hơn. Và tôi thực sự tin rằng những gì chúng tôi đã làm sẽ chứng minh rằng nhượng bộ là thứ duy nhất có thể cứu thế giới khỏi chiến tranh."[41] Liền sau Hiệp ước Munich, 2 hiệp ước khác được Anh-Pháp ký với Đức:
Ngày 6 tháng 12 năm 1938 Pháp tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước tương trợ Pháp-Liên Xô để ký với Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn của Hiệp định Munich 1938. Ngày 15 tháng 3 năm 1939, hiệp ước Düsseldorf được ký kết giữa Anh và Đức Quốc xã về việc phân chia thị trường trong khu vực châu Âu cho hai cường quốc Anh và Đức, trong đó Anh sẽ tránh cạnh tranh với Đức tại thị trường Đông Âu.[42]Hai nước Anh và Pháp đã đánh giá quá cao sức mạnh của Đức lúc bấy giờ cho nên họ tìm mọi cách để tránh chiến tranh với Hitler. Chính phủ cả hai nước đều cho rằng lực lượng vũ trang của Đức là vượt trội so với họ ở thời điểm đó nên cả hai đã đẩy nhanh việc hiện đại hóa quân đội của nước mình nhằm đối phó với Đức. Sự nghi kỵ từ lâu của họ đối với chính quyền Liên Xô của Stalin cũng khiến họ không muốn lập liên minh với Liên Xô. Qua Hiệp ước München vào ngày 29 tháng 9, Anh- Pháp đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng hoà Tiệp Khắc và buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ để thỏa mãn yêu cầu của Đức. Nhưng không dừng lại ở đó, đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Liên Xô ra tuyên bố phản đối Đức, nhưng Anh-Pháp vẫn bỏ qua việc này. Thấy tình hình thuận lợi, cả Ba Lan và Hungari cũng theo chân Đức, đưa quân chiếm một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Ý theo gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935 và sáp nhập Albania vào ngày 12 tháng 4 năm 1939[43].
Cây bút Ekaterina Blinova của Nga trong một bài viết đã cáo buộc rằng nước Anh không chỉ bỏ mặc Tiệp Khắc cho Hitler xâm chiếm mà còn tình nguyện trao gần 9 triệu USD tiền vàng vốn thuộc về Tiệp Khắc cho Đức Quốc xã. Các thỏi vàng của Tiệp Khắc đã được gửi ngay cho Hitler vào tháng 3 năm 1939 khi quân Đức chiếm Praha. BLinova cũng cho rằng chính phủ Anh thực sự đã ngăn chặn và làm phá sản một âm mưu đảo chính của một nhóm sĩ quan cao cấp của quân đội Đức nhằm vào Adolf Hitler vào năm 1938, khi Hitler ra lệnh tấn công Tiệp Khắc. Bài viết cũng trích dẫn lời của tác giả Anh Michael McMenamin cho biết: “Về mặt lịch sử, không có nghi ngờ gì về việc phong trào kháng chiến Đức đã liên tục cảnh báo cho người Anh về ý đồ của Hitler là muốn xâm lược Tiệp Khắc vào tháng 9 năm 1938... Tuy nhiên, để đáp lại, chính phủ Anh khi đó đã thực hiện mọi bước đi ngoại giao có thể để... phá hoại phe đối lập với Hitler.”[15]
Sau Hiệp ước Munich, nhiều quốc gia đã quay sang tìm cách thỏa hiệp với Đức do họ lo sợ mình sẽ rơi vào thảm cảnh tương tự như Tiệp Khắc. Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Với các hiệp ước này, Đức Quốc xã cam kết sẽ bảo vệ những quốc gia nói trên khỏi "mối đe dọa" từ Liên Xô và Phương Tây[44].
Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và ký với Đức hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, đồng thời bỏ mặc Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô vô cùng lo ngại. Trong một bài phát biểu tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 vào ngày 10 tháng 3 năm 1939, Stalin đã chỉ trích Phương Tây và cho rằng họ không thành tâm trong việc chống lại Hitler, và thực chất mọi hành động của họ chỉ nhằm hướng cỗ máy chiến tranh của Đức nhắm vào Liên Xô[45][46].
Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Liên Xô tin rằng một cuộc chiến tranh là khó có thể tránh khỏi và mong muốn có một hiệp ước Tay Ba với Anh và Pháp đồng thời đề xuất mở một cuộc tấn công hai cánh vào nước Đức.[47]. Ở chiều ngược lại chính phủ Anh và Pháp tin rằng hoàn toàn có thể tránh được chiến tranh và chủ trương nhượng bộ với Đức, đồng thời bác bỏ đề xuất của Liên Xô. Anh và Pháp cũng tỏ thái độ nghi ngại về khả năng thực sự của quân đội Liên Xô trong một mặt trận quân sự chống lại Đức, khi xét đến việc Liên Xô đã bị suy yếu sau cuộc thanh lọc chính trị của Stalin cách đó không lâu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này[43], hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu đã không thể được thực hiện.
Trước tình hình đó, Stalin cho rằng một cuộc chiến với Đức không còn là ưu tiên hàng đầu của ông ta và bắt đầu quay sang đàm phán với Đức. Từ tháng 4 đến tháng 7, hai bên đã có những cuộc tiếp xúc bí mật với nhau thông qua các đoàn ngoại giao.[48]. Những buổi gặp mặt này bề ngoài tưởng chừng là những cuộc hội đàm kinh tế, nhưng dần dần hai bên đã dần chuyển qua đàm phán nhằm tìm kiếm một thỏa thuận chính trị mà cụ thể là một hiệp ước không xâm lược giữa hai nước. Từ tháng 5, Stalin đã loại bỏ Maxim Litvinov, một người Do Thái, ra khỏi vị trí Bộ trưởng ngoại giao với lý do "thân Phương Tây" và thay bằng Vyacheslav Molotov. Stalin sau đó cũng loại bỏ các bộ trưởng là người Do Tháikhỏi chính quyền[49][50][51]. Hành động của Stalin đã xóa đi một trở ngại lớn trong việc xích lại gần hơn với Đức. Vào đầu tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô đã bỏ qua hoàn toàn các thỏa thuận kinh tế, và bắt đầu thảo luận về một liên minh chính trị [52]. Họ giải thích cho nhau về những lí do cho sự thù địch giữa hai bên trong những năm 30, tìm cơ sở chung cho chính sách chống chủ nghĩa tư bản ở cả hai nước[cần giải thích] [53][54]
Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức hoá liên minh quân sự giữa hai nước. Về sau, hiệp ước được mở rộng thêm Đế quốc Nhật Bản, làm thành bộ ba Đức-Ý-Nhật, 3 cường quốc lớn nhất của phe Trục trong thế chiến thứ 2.
Cũng trong tháng 8, ba nước Anh, Pháp và Liên Xô mở lại cuộc đàm phán cuối cùng về một liên minh quân sự chống Đức. Ở cuộc gặp mặt, Liên Xô yêu cầu Ba Lan cho phépHồng quân Liên Xô tiến quân qua lãnh thổ nước này nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công của Đức.[55][56] Anh và Pháp cũng đề nghị chính phủ Ba Lan đồng ý với yêu cầu của phía Liên Xô, nhưng chính phủ Ba Lan đã từ chối đề nghị này. Ngoại trưởng Ba Lan Józef Beck cho rằng đây chỉ là cái cớ của Stalin nhằm thực hiện ý định chiếm đóng Ba Lan và một khi Hồng quân đã tiến vào Ba Lan, họ sẽ không bao giờ rút đi [57][58]
Giờ đây Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô chính thức kýHiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ vùng ảnh hưởng tại Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc. Tuy nhiên với Liên Xô, hành động này không có gì khó hiểu vì Anh-Pháp đã từ chối lập liên minh chống Đức, mà họ thì không muốn một mình đối đầu với Đức tại thời điểm đó.
Tình hình châu Á Xem thêm thông tin: Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và Chiến tranh Trung-Nhật Xe tăng Liên Xô dàn đội hình tấn công quân Nhật trong chiến dịch Khalkhyn GolTại châu Á, sau khi hứng chịu cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, Đế quốc Nhật Bản cũng đi theo con đường quân phiệt và phát xít hóa giống như Đức. Các nước thực dân phương Tây chiếm nhiều thuộc địa với lãnh thổ rộng lớn như Anh, Pháp, Mỹ đã tạo nên những vùng độc quyền khai thác tài nguyên nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của riêng nước mình. Những thế lực mới nổi bị chậm chân trong cuộc chia chác thuộc địa thế giới là Đức, Ý và Nhật. Nhật Bản thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng, họ buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu mỏ và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì tăng trưởng trong ngành công nghiệp. Người Nhật cảm thấy rằng đã đến lúc cần phát động chiến tranh để giành lấy các thuộc địa giàu tài nguyên tại châu Á từ tay các nước thực dân phương Tây là Anh và Pháp.
Mặt khác, cũng như Đức quốc xã, Nhật bản thi hành chính sách chống chủ nghĩa Cộng sản rất mạnh, bởi học thuyết Cộng sản chủ nghĩa chủ trương bình đẳng xã hội, điều này rõ ràng là xâm phạm đến quyền lực của Thiên Hoàng, các quý tộc, những nhà tư bản và cả giới quân nhân hiếu chiến, các lực lượng đang cai trị Nhật Bản khi đó. Vào năm 1936, Nhật Bản đã ký kết "Hiệp định phòng Cộng Nhật - Đức" (Nichidoku bôkyô kyôtei) với nước Đức quốc xã. "Phòng Cộng" có nghĩa là ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản, quốc gia bị xem như là đối tượng thù địch không được nêu tên trong hiệp ước này, nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là Liên Xô.
Trong thời gian này, ảnh hưởng của cuộc Đại khủng hoảng năm 1929 đã làm cho chính phủ dân sự Nhật sụp đổ, tinh thần quân phiệt cực đoan tại Nhật tăng cao. Đứng trước cuộc khủng hoảng đó, những nhóm Gunbatsu (quân phiệt Nhật) đã chủ trương giải quyết các vấn đề quốc gia bằng chính phủ độc tài và chính sách xâm lược.[59] Liên minh với các Gunbatsu là các nhà tài phiệt Zaibatsu gồm 4 tập đoàn tài chính lớn Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo và Yasuda kiểm soát nền công nghiệp Nhật và chiếm 3/4 số cổ phần cả nước.[60] Chính phủ quân phiệt được thành lập, mặc dù việc nắm quyền của quân đội sẽ gây một số hạn chế nhưng họ đảm bảo thực hiện các mong ước của Nhật hoàng Hiro Hito. Chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã chuẩn bị một kế hoạch chiến tranh quy mô lớn nhằm đánh bại thế lực cường quốc phương Tây, độc chiếm khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 1927, thủ tướng Nhật Tanaka Giichi đã trình lên Nhật hoàng kế hoạch chiến tranh bành trướng của Nhật Bản gồm 4 bước: đánh chiếm Mãn Châu, độc chiếm Trung Quốc, làm chủ châu Á và sau cùng là bá chủ toàn cầu.[61]
Quân Nhật đánh chiếm Quảng Đông, Trung Quốc năm 1938 Sĩ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình Dương cho binh sĩNhật Bản đã xâm chiếm Mãn Châu (Trung Quốc) từ năm 1931. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia đang bị chia cắt này ngày càng lớn trong những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi Nhật lấy cớ sự kiện Lư Câu Kiều để đưa quân tấn công Trung Quốc. Với ưu thế vượt trội về không quân và hải quân, cũng như tinh thần kỷ luật cao của binh sĩ, Nhật Bản nhanh chóng chiếm đóng hầu hết miền đông bắc Trung Quốc.
Lúc này, hai phía Quốc dân đảng và Cộng sản đảng chấp nhận ngừng chiến để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản ra khỏi Trung Quốc. Cuộc chiến còn có sự tham gia của Không quân Liên Xô để hỗ trợ cho quân Trung Quốc lúc này còn rất yếu về không quân so với Nhật.
Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau này đà thắng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm luôn cả nhiều vùng miền Đông Nam Trung Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiệnThảm sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi hỏi Nhật rời khỏi Trung Quốc, tuy nhiên Nhật Bản phớt lờ những sức ép này. Hoa Kỳ, nước đang nắm giữ nhiều đảo ở Thái Bình Dương và Phillipine, đã bày tỏ sự lo ngại đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.
Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu (sau sự kiện cầu Lư Câu 1937). Tuy thế, Trung Quốc không có hai tài nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏ và cao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là đánh vào phía bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn của Siberi và hai là đánh xuống phía nam vào các thuộc địa của Âu Châu tạiĐông Nam Á.
Sau đó, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật nổ ra khi Nhật bản muốn xâm chiếm lãnh thổ viễn đông của Nga và phía đông Mông Cổ. Nhật bản cho rằng lục quân Liên Xô cũng giống như họ, chỉ có trang bị nhỉnh hơn thời Thế chiến thứ nhất đôi chút, nhưng khi giao chiến thì Nhật thấy rằng lúc đó quân đội Liên Xô đã được cơ giới hoá quá nhanh, vượt xa trình độ của lục quân Nhật. Kết quả là lục quân Nhật Bản bị Liên Xô đánh bại 2 lần liên tiếp, và các chỉ huy Nhật Bản kết luận rằng cách đánh vào phía bắc không thể giành được chiến thắng. Sau thất bại trong trận Khalkhin Gol, Nhật Bản và Liên Xô đã ký một hiệp ước trung lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1939. Nhiều sử gia Liên Xô cho rằng việc thất bại trong chiến dịch Khalkhin Gol đã khiến Nhật từ bỏ kế hoạch xâm lược Liên Xô, dù sau này Đức Quốc xã đã đề nghị Nhật cùng hợp sức tấn công Liên Xô vào năm 1941[a][b][c].
Không thể tiến lên phía bắc, giờ đây tham vọng của Nhật được hướng xuống phía nam, vào các thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan tại khu vực Đông Nam Á. Chiếm được vùng này, Nhật Bản sẽ có được hai tài nguyên quan trọng là dầu mỏ và cao su, cho phép họ đủ sức tranh đoạt vị trí bá chủ ở Thái Bình Dương với Anh và Hoa Kỳ.
Diễn biến Chiến trường châu Âu Bài chi tiết: Chiến trường châu Âu (Chiến tranh thế giới thứ hai)Chiến trường châu Âu 1939-1940
Bài chi tiết: Cuộc xâm lược Ba Lan (1939), Cuộc chiến cuội, Sự phản bội của phương Tây, và Trận chiến nước PhápVào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, lấy cớ bảo vệ kiều dân gốc Đức và phản công lại vụ phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức của lính Ba Lan (vụ việc này về sau được chứng minh là do quân Đức dựng lên). Đức xâm lược Ba Lan khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan, tuy nhiên thực tế 2 nước này đã không có hành động gì trợ giúp cho Ba Lan (Anh, Pháp hy vọng sau khi Đức chiếm xong Ba Lan thì sẽ ngừng lại hoặc quay sang tấn công Liên Xô).
Đức đã huy động 56 sư đoàn, tiến theo 3 đường vào Ba Lan từ biên phía bắc, phía đông và phía tây và mục tiêu của cả ba hướng tấn công này đều là thủ đô Warsaw của Ba Lan. Trong khi đó, không quân Đức ra sức oanh tạc phá hủy các cơ sở hạ tầng, trục đường giao thông, trung tâm chỉ huy và nhất là các phi trường Ba Lan.
Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới Ba Lan Bộ binh Ba Lan Molotov ký hiệp ước với nước Đức, Ribbentrop và Stalin đứng sau Tướng Heinz Guderian (Đức Quốc xã, giữa) và đại tá Semyon Krivoshein(Liên Xô, phải) trong cuộc duyệt binh chung Lính Anh đóng ở Pháp đang chơi bóngNhờ ưu thế vượt trội về quân lực, vũ khí và phương tiện kỹ thuật nên quân đội Đức đã dễ dàng chọc thủng phòng tuyến biên giới Ba Lan ở nhiều nơi. Chỉ trong 1 tuần đầu của cuộc chiến, quân Đức đã tiến được 225 km. Quân Ba Lan choáng váng trước tốc độ tiến công của chiến tranh chớp nhoáng do Đức thực hiện. Ngày 13 tháng 9, thủ đô Ba Lan bị vây hãm. Chính phủ Ba Lan (đứng đầu là tổng thống Ignacy Mościcki) và bộ chỉ huy quân sự tối cao đã rời bỏ thủ đô ngay trong ngày đầu tiên của cuộc chiến và chạy về phía đông nam, sau đó lên máy bay sang Anh tị nạn.
Vào ngày 17 tháng 9, Hồng quân Liên Xô cũng tấn công Ba Lan từ phía đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan chuyển quân sang phía tây chống Đức, với lí do là để bảo vệ kiều dân gốc Nga và thu hồi lại những vùng đất đã bị Ba Lan chiếm đóng của họ trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921). Sự xâm nhập từ 2 nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải chạy khỏi đất nước, một phần quân đội Ba Lan rút theo và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6 tháng 10, lực lượng quân đội Ba Lan còn lại hoàn toàn đầu hàng. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát nằm dưới quản lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi các vùng phía đông (từ năm 1772 đến trước Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921) thuộc lãnh thổ Đế chế Nga, được gọi là Tây Belarus và Tây Ucraina) được hoàn trả cho Liên Xô. Khoản 22.000 tù binh chiến tranh Ba Lan sau đó bị Liên Xô xử bắn ở Katyn. Cuộc tấn công của Liên Xô, mà nhân dân Liên Xô, Ukraina và Belarus gọi là "chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina", đã dẫn đến việc tái hợp nhất nửa phía Tây Ukraina và Tây Byelorussia (sau khi Ba Lan chiếm vào năm 1921), và hiện nay được coi là 1 ngày lễ chính ở 2 nước này[62]
Sự sụp đổ nhanh chóng của Ba Lan có lý do khách quan là sự vượt trội về công nghệ quân sự của Đức, còn lý do chủ quan là vì họ quá tin vào lời hứa của Anh-Pháp sẽ nhanh chóng tiếp viện cho Ba Lan, nhưng thực tế viện trợ đã không đến. Người Ba Lan cho rằng họ đã bị đồng minh của họ bỏ rơi, nhiều người cũng tin rằng Anh và Pháp đã phản bội Ba Lan vì khi Đức tấn công Ba Lan, quân Anh-Pháp có tới 110 sư đoàn đang áp sát biên giới Đức so với chỉ 30 sư đoàn của Đức, họ cho rằng nếu Anh-Pháp tấn công thì sẽ nhanh chóng buộc Đức phải rút quân về nước. Tư lệnh kỵ binh Đức Quốc xã Siegfried Westphal từng nói, nếu quân Pháp tấn công trong tháng 9 năm 1939 vào chiến tuyến Đức thì họ "chỉ có thể cầm cự được một hoặc hai tuần". Riêng ở đồng bằng Saar tháng 9 năm 1939, binh lực Pháp có 40 sư đoàn so với 22 của Đức, phía Đức không có xe tăng và chỉ có chưa đầy 100 khẩu pháo các cỡ, quá yếu ớt khi so sánh với trang bị của Pháp (1 sư đoàn thiết giáp, ba sư đoàn cơ giới, 78 trung đoàn pháo binh và 40 tiểu đoàn xe tăng). Tướng Đức Alfred Jodl từng nói:"Chúng tôi (Đức) đã không sụp đổ trong năm 1939 chỉ do một thực tế là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn của Anh và Pháp ở phương Tây đã hoàn toàn không có bất cứ hoạt động gì khi đối mặt với 23 sư đoàn Đức"[63].
Những ý kiến khác thì cho rằng Anh và Pháp đã không thể làm gì nhiều để giúp Ba Lan vào thời điểm đó. Quá trình huy động binh lính ở cả hai nước đã diễn ra quá chậm, chưa kể đến việc thiếu thốn các phương tiện vận chuyển, máy bay chiến đấu... Ngoài ra Anh và Pháp cũng đã bị bất ngờ bởi sức tấn công hiệu quả của người Đức, họ cho rằng Ba Lan có thể cầm cự ít nhất là đến cuối năm, đủ thời gian cho họ có thể đem quân đến tiếp viện, nhưng trên thực tế người Ba Lan đã sụp đổ quá sớm. Một lí do khác cũng được đưa ra là việc Stalin đem quân tấn công Ba Lan nằm ngoài dự tính của chính phủ Anh-Pháp, do đó họ không muốn tham chiến vội bởi họ lo sợ sẽ phải đối đầu với cả lực lượng của Đức lẫn của Liên Xô. Tư tưởng "chủ hòa" lúc ấy vẫn chiếm ưu thế trong nội bộ chính phủ 2 nước, và những người đứng đầu chính phủ của cả Anh và Pháp vẫn chủ trương giải quyết vấn đề với nước Đức Quốc xã thông qua các biện pháp ngoại giao hơn là dùng vũ lực. Do chính phủ Anh-Pháp tin rằng hòa bình vẫn sẽ còn kéo dài nên không ra lệnh tác chiến, quân đội 2 nước đã không ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Tại tuyến phía Tây do quân Anh - Pháp đóng có ưu thế tuyệt đối, nhưng lại án binh bất động. Pháo binh quân Anh-Pháp ở bên này sông Rhine vẫn im lặng nhìn những đoàn xe quân Đức vận chuyển vũ khí qua lại ở bên kia sông. Các trạm đóng quân dọc biên giới của Pháp ở phía Tây vẫn án binh bất động, binh sĩ chơi bài, đá bóng và còn có các hoạt động văn hóa, thể thao để giết thời gian. Thủ tướng Pháp thậm chí còn phát cho binh lính một vạn quả bóng để chơi. Cuộc “chiến tranh kỳ quái” cứ tiếp diễn (xem Cuộc chiến Cuội).
Mặc dù chiến sự trên đất liền giai đoạn này đã diễn ra im ắng, trên biển đã cho thấy tình hình ngược lại. Nước Anh đã bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức, nhằm phá hủy nền kinh tế và nỗ lực gây chiến của đất nước này[64]. Biện pháp này tỏ ra không hiệu quả, bởi khác với Thế chiến 1, lần này Đức có thể kiếm được tài nguyên từ các vùng mới bị chiếm đóng. Đức cũng đáp trả lại bằng cách sử dụng hạm đội tàu ngầm U-boat tấn công các tàu buôn và tàu chiến của Anh và Pháp, kết quả dẫn đến Trận chiến Đại Tây Dương giữa hai phe mà đã kéo dài đến tận khi kết thúc cuộc chiến tranh.
Con đường Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích trong mùa đông khắc nghiệt Bộ binh Đức tấn công tại một ngôi làng đang cháy của Na UyNgay sau chiến dịch Ba Lan, để củng cố biên giới phía Tây chuẩn bị cho chiến tranh với Đức, Liên Xô bắt đầu tiến quân vào các nước cộng hòa gần biển Baltic. Tại 3 nước Baltic, quân đội Liên Xô không gặp kháng cự đáng kể, nhưng Phần Lan thì phản kháng quyết liệt, dẫn đến Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan vào ngày 30 tháng 11 cho đến tháng 3 năm 1940. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh Tây phương đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, với việc hai phía tuyên chiến với nhau nhưng không bên nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi Đức mở Chiến dịch Weserübungxâm lược Đan Mạch và Na Uy nhằm bảo vệ con đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức [65]Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng quân Đức chỉ sau vài giờ chiến đấu. Ở Na Uy thì quân Đức gặp nhiều khó khăn hơn khi Anh điều một lực lượng lớn tới đây trợ giúp Na Uy, và phải mất hai tháng để Đức chiếm đóng hoàn toàn được quốc gia trung lập này.[66] Thất bại trong việc cứu Na Uy khiến cho Thủ tướng Anh Neville Chamberlain bị thay thế bởi Winston Churchill vào ngày 10 tháng 5 năm1940[67].
Chiến trường Tây Âu
Bài chi tiết: Mặt trận phía Tây (Thế chiến thứ hai)Sau khi thôn tính các nước Bắc Âu, Hitler phát động chiến dịch tấn công nước Pháp, mở đầu là Kế hoạch Manstein xâm chiếm các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Những cuộc tấn công vào ba nước này đã diễn ra rất nhanh chóng và Đức giành thắng lợi vang dội. Người Đức đã huy động vào mặt trận này 3.350.000 quân, nhiều hơn bất kỳ mặt trận nào khác cho tới thời điểm đó. Phía liên quân Anh-Pháp có 3,3 triệu quân, lực lượng 2 bên khá tương đương. Tuy nhiên, các chỉ huy Anh-Pháp vẫn duy trì lối tư duy về chiến tranh chiến hào của thế chiến thứ nhất, do vậy họ tập trung lực lượng về phòng tuyến Maginot với dự định dựa vào hệ thống công sự vững chắc để chặn đứng quân Đức tại đây, sau khi Đức thiệt hại nặng thì sẽ chuyển sang phản công, đúng như diễn biến trong Thế chiến thứ nhất.
Đức tiến vào Bỉ và Miền Bắc nước Pháp, từ 10 tháng 5 đến 4 tháng 6 năm 1940, quét qua phòng tuyến MaginotThực tế cho thấy đây là một sai lầm chiến lược rất tai hại của liên quân Anh-Pháp. Quân Đức với học thuyết chiến tranh chớp nhoáng đã sử dụng lực lượng thiết giáp đi vòng qua phòng tuyến Maginot, thọc sâu vào hậu phương của Pháp và bao vây luôn khối quân Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến này. Do quân chủ lực Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến Maginot nên quân Đức tiến nhanh vào lãnh thổ Pháp mà không găp kháng cự đáng kể, các cuộc phản công của Anh-Pháp nhằm chặn đứng quân Đức đều thất bại nhanh chóng. Chính phủ Pháp bỏ chạy khỏi thủ đô Paris, điều này lại càng làm tăng thêm sự hoảng loạn đối với toàn quân đội Pháp.
Quân Đức diễu hành chiến thắng tại Khải Hoàn Môn, Paris ngày 14 tháng 6Với chiến lược khôn khéo cộng với những sai lầm của Anh-Pháp, quân Đức nhanh chóng đánh bại đối phương. Trong vòng một tháng, chính phủ Pháp tuyên bố đầu hàng, trong khi lực lượng Anh phải lên tàu chạy khỏi nước Pháp. Ngày 10 tháng 6, Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Chỉ trong hơn 1 tháng, quân Đức đã tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh 2,2 triệu quân Anh và Pháp. Ngoài ra, 340.000 quân Anh-Pháp bị bao vây ở Dunkirk, đã phải vứt bỏ lại vũ khí, lên tàu bỏ chạy khỏi Pháp về Anh. Để có thắng lợi rất lớn này, quân Đức chỉ bị thiệt hại 156.000 người (trong đó 46.000 tử trận và 110.000 bị thương). Đây là một trong những chiến dịch quân sự thắng lợi lớn nhất trong thế kỷ 20.
Ngày 14 tháng 6, quân Đức chiếm được thủ đô Paris của Pháp. Đến cuối tháng 6, chính phủ Pháp đã đầu hàng theo Hiệp định Compiègne lần thứ hai, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết lãnh thổ, Ý cũng được hưởng một phần, 1/4 lãnh thổ còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành dưới sự khống chế của Đức. Sau khi chiến thắng, Đức cũng chiếm được rất nhiều nhà máy và đội ngũ công nhân lành nghề của Pháp, tiềm lực chiến tranh của Đức tăng rất nhiều.
Sau khi chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, tướng Pháp Charles de Gaulle chạy sang London và tập hợp tổ chức có tên gọi là "Nước Pháp Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi tất cả người Pháp ở trong nước cũng như ở hải ngoại tiếp tục cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã.
Chiến tranh giữa Đức và Anh
Bài chi tiết: Trận chiến nước AnhSau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn Anh đơn độc chống lại Đức. Lục quân Đức rất mạnh nhưng bị ngăn cách với nước Anh bởi eo biển nên không thể tấn công được. Ngày 10 tháng 5 năm 1940, Anh xâm chiếm Iceland và Đảo Faroe để tránh việc Đức được đặt căn cứ quân sự tại đây. Để tránh việc hạm đội mạnh của Pháp được Hitler trưng dụng để tấn côngAnh, ngày 3 tháng 7 năm 1940, Không quân và hải Quân Anh đã dội bom vào hạm đội Pháp (vốn là đồng minh của họ chỉ 2 tháng trước đó, nay thuộc về Chính phủ Vichy bù nhìn của Đức) neo đậu tại cảng Mers-el-Kebir ở Algérie, đánh chìm nhiều tàu và khiến hàng ngàn thủy thủ Pháp thương vong. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm, nay có thể sử dụng các cảng tại Pháp, và Hải quân Hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được Đức dùng để tiêu diệt các đoàn tàu vận tải đưa hàng hóa về Anh theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh khi Đức dùng Không quân của họ để tiêu diệt Không quân Hoàng gia Anh, qua đó tận dụng ưu thế không gian để thực hiện Chiến dịch Sư tử biển nhằm đổ bộ lên nước Anh. Cuộc chiến đấu trên không tại Anh Quốcgiữa hai lực lượng Luftwaffe của Đức và RAF của Anh hay còn được biết đến với cái tên Trận chiến nước Anh là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên được thực hiện hoàn toàn bằng lực lượng không quân.[68]
Trước đó, chưa bao giờ có cuộc oanh tạc và đụng độ trên không lâu dài và ác liệt như thế. Sau gần 4 tháng, không quân 2 bên đều bị thiệt hại lớn (Anh mất 1.744 máy bay, Đức mất 1.977 máy bay[69]). Không quân Đức sau cùng đã phải dừng chiến dịch trước sức chiến đấu của không quân Anh và sức chịu đựng dũng cảm của nhân dân Anh. Ở trên biển, kết quả khả quan hơn cho Đức, đội tàu ngầm Đức đánh chìm hàng ngàn tàu chở hàng của Anh, khiến lương thực và nguyên liệu nhập khẩu của Anh bị sụt giảm nghiêm trọng, nhưng chưa đủ để Anh phải đầu hàng. Nền Đệ tam Đế chế Đức đã không thể hoàn thành được mục tiêu của mình: nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu dù trong tình trạng suy sụp về rất nhiều mặt.
Hình ảnh thấy đường đạn từ một chiếc Supermarine Spitfire Mark I thuộc đội bay số 609 của RAF, do J.H.G. McArthur lái, bắn trúng mạn phải một máy bay Heinkel He 111, ngày 25 tháng 9 năm 1940Cho đến lúc này, thái độ của Mỹ vẫn là đứng ngoài cuộc và không muốn can dự vào chiến tranh. Nước Anh, với việc Pháp đã sụp đổ, đã quay sang cầu cứu sự giúp đỡ của Mỹ. Hoa Kỳ cho Anh mượn (trên thực tế là bán) 50 chiếc khu trục hạm cũ kỹ cho Anh với điều kiện Anh sẽ cho Hoa Kỳ thuê trong 99 năm các căn cứ tại Newfoundland, Bermuda và West Indies. Giao kèo bán tàu này rất có lợi cho Mỹ bởi các tàu khu trục này không có mấy giá trị đối với họ, trong khi đổi lại họ lại có được các căn cứ quân sự quan trọng trên Đại Tây Dương nhằm mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, đồng thời ngăn chăn được khả năng Đức sẽ chiếm các căn cứ này làm bàn đạp để tấn công lãnh thổ của Hoa Kỳ nếu như chẳng may Anh đầu hàng Đức.[70]
Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố sẽ giúp Anh và Liên Xô về trang bị nhưng nước Mỹ sẽ không tham chiến, ngay cả các cố vấn chính phủ còn cho rằng Anh sẽ thua Đức và tốt nhất là chỉ nên bán vũ khí cho Anh chứ không nên tham chiến. Đạo luật lend-lease (cho vay - cho thuê) thông qua tháng 11 năm 1941 cho phép Tổng thống Roosevelt cung cấp mọi tài sản cần thiết cho chiến tranh, từ thực phẩm, vũ khí tới các dịch vụ khác cho các nước đang tham chiến nếu thấy có lợi cho an ninh của Hoa Kỳ, đi kèm theo là những đòi hỏi về những khoản lợi kinh tế - chính trị như việc cho Mỹ thuê các hải cảng hoặc các căn cứ quân sự. Việc này trên thực tế đã vi phạm quy tắc trung lập của Hoa Kỳ, nhưng khi chứng kiến chiến tranh ngày một leo thang ở châu Âu, đa số dân chúng trong nước đã ủng hộ Đạo luật dù họ phản đối việc đưa quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến [71].
Tháng 6 năm 1941, khi Đức tấn công Liên Xô, Phó Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã tuyên bố rằng:
Nếu chúng ta thấy Đức chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Nga, và nếu Nga chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Đức, và theo cách đó cứ để họ giết nhau càng nhiều càng tốt, mặc dù tôi không muốn nhìn thấy Hitler chiến thắng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.[72]
Chiến tranh Đại Tây Dương
Bài chi tiết: Trận chiến Đại Tây Dương (1939-1945)Trận chiến Đại Tây Dương được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù có sử gia cho rằng đây không phải là một trận duy nhất mà là gồm một chuỗi nhiều trận hải chiến hay cuộc hành quân trên biển. Cuộc chiến bắt đầu ngày 3 tháng 9 năm 1939 cho đến khi Đức Quốc xã đầu hàng năm 1945. Cao điểm của trận chiến là những năm 1940 - 1943 khi tàu ngầm (U-Boat) và các chiến hạm của hải quân Đức (Kriegsmarine) tấn công và đánh chìm nhiều đoàn tàu buôn và chiến hạm củaĐồng Minh.
Những đoàn tàu tiếp tế này tới từ Hoa Kỳ theo phía nam Đại Tây Dương chở tiếp vận và vũ khí đến Anh Quốc và Liên Xô, được hộ tống bởi hải quân và không quân Anh và Canada. Bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 1941 có thêm chiến hạm Hoa Kỳ tham gia hộ tống các đoàn tàu này. Hải quân Ý theo phe Đức tham gia trận đánh từ ngày 10 tháng 6năm 1940.
Trận chiến này (từ tiếng Anh "Battle of the Atlantic" do thủ tướng Anh Winston Churchill nêu lên năm 1941) lan rộng khắp một vùng hải dương rộng lớn, kéo dài 6 năm, với hàng nghìn thuyền bè tham gia, hơn 100 đoàn tàu bị tấn công và đến cả ngàn trận đánh một chọi một giữa hai chiến hạm. Chiến thuật trên biển thay đổi liên tục, lúc bên này thắng thế, lúc bên kia thắng thế.